Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013

Nhân sinh quan phật giáo với một số lĩnh vực đời sống văn hóa tinh thần người việt nam

Từ nhỏ Khổng Tử vẫn là một đứa bé siêng năng và ham học hỏi, thích
chơi trò cúng tế. Năm 33 tuổi, Khổng Tử đến nước Chu để khảo sát việc tế lễ
ở miếu đường, gặp lúc loạn lạc Khổng Tử bỏ qua nước Tề sau đó trở về nước
Lỗ dạy học và nghiên cứu sách. Năm 53 tuổi, Khổng Tử được vua Lỗ mời ra
làm Trung Đô Tể (quan coi ấp Trung Đô), lúc này tư tưởng chính trị của ông
được thi hành nhiều nơi. Chẳng bao lâu ông được phong Đại Tư Khấu rồi
Nhiếp Tướng Bộ coi việc hình án, ấn định luật lệ, phép tắc trong nước. Thời
gian làm quan, Khổng Tử đã đem lại cho nước Lỗ cảnh thanh bình, ban đêm
ngủ không đóng cửa, ban ngày ra đường không ai nhặt của rơi, luân thừơng
đạo lý được coi trọng.
Sau đó vua nước Lỗ say sưa trong cảnh thanh bình mà đam mê tửu sắc,
bỏ bê việc triều chính làm cho Khổng Tử chán nản, bỏ sang nước Vệ, nước Vệ
không trọng dụng, ông bỏ sang nước Trần rồi lại về nước Vệ. Từ nước Vệ
ông sang nước Tống lại qua nước Trần, rồi về nước Vệ. Sau 14 năm bôn ba
cùng học trò mong có người sử dụng học thuyết của mình, song ông đã thất
vọng. Trở lại nước Vệ sống khoảng 5-6 năm ông mới thấy bất lực việc làm
chính trị, nên trở về nước Lỗ dạy học và san định lại các kinh sách đời trước.
Ông mất vào năm 479 TCN ở quê nhà, vào đời Lỗ Ai Công năm 16, Chu Kính
Vương năm 41, thọ khoảng 72 tuổi.
Có thể nói cả cuộc đời ông là việc “học không biết chán, dạy không biết
mỏi” ( Luận ngữ, Thuật nhi). Với phương châm “thuật nhi bất tác” ông đã san
định lại các sách của người xưa để lại gồm Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Lễ,
Kinh Nhạc, Kinh Thư, và viết thêm Kinh Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của
mình. Ông nói người đời sau hiểu ông hay không chính là ở bộ Kinh Xuân Thu
đó (Mạnh Tử, Đằng văn công hạ). Nhiều quan điểm của ông cũng thể hiện qua
các cuộc đàm đạo mà nội dung của nó được ghi lại trong bộ Luận ngữ do học
trò của ông chép lại. Sau này cuộc “Phần thư Khanh Nho” của Tần Thuỷ
Hoàng mà sách của đạo Nho không còn là bao. Kinh Nhạc còn một thiên là
Nhạc ký sau đó gộp vào bộ Lễ ký, nên cuối cùng bộ tác phẩm này còn lại năm
kinh (ngũ kinh), đó là Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân
Thu.
Trong hệ thống triết học của mình, Khổng Tử chủ yếu đi sâu vào các vấn
đề chính trị - xã hội. Nhưng ở các tác phẩm của ông và sách vở do học trò ghi
lại thì cho thấy rằng ông cũng đã đề cập nhiều đến các vấn đề của triết học, thể
hiện quan điểm của ông trong các vấn đề về thế giới, về chính trị - xã hội, về
luân lý đạo đức và cuộc sống con người. .
- Quan niệm về thế giới: Khổng giáo tin rằng trời là chủ lễ cả vũ trụ có ý
chí mạnh mẽ điều hoà thế gian. Nhưng Khổng Tử không quan niệm về trời như
các quan niệm của tôn giáo, tức trời có hình dáng, cảm tình như con người.
Theo ông, trời là cái lý vô hình, huyền diệu, một năng lực khi thi hành thi
không sao cưỡng lại được. Quỷ thần theo Khổng Tử đó là cái khí linh thiêng
của trời đất, không hiện hữu nhưng có tất cả trong muôn vật. Khổng tử cho
rằng trời, quỷ thần rất thông minh chính trực, không thiên tư, “trời có nói gì
đâu mà bốn mùa vẫn cứ vận hành, vạn vật vẫn cứ sinh hoá mãi” (Luận ngữ,
Dương hoá). Vạn vật, trời đất, quỷ thần, con người tất cả đều có quan hệ với
nhau sống trong một cái lý chung của trời. Con người trong vũ trụ không tách
rời cái quy luật chung đó. Nó được gọi là “đạo”, tất cả đều thu về một mối, “tất
cả mọi vật đều trôi đi như dòng nước chảy, không có vật nào ngưng
nghỉ”(Luận ngữ, Vệ Linh Công). Con người sống trong vũ trụ chịu theo đạo
trời đó là “thiên mệnh”. “Thiên mệnh” đó là sự định đoạt của trời đối với mỗi
một con người từ khi sinh thành đến khi chết đi, mọi sự kiện, biến động, trạng
thái . của con người đều do trời sắp sẵn, là cái tất nhiên sẽ đến trong cuộc đời.
Từ đó, Nho giáo khuyên con người nên sống theo mệnh trời, “sống chết có
mạng, giàu sang tại trời”(Luận ngữ, Nhan uyên). Còn người quân tử là kẻ cai
trị thiên hạ thì phải biết mệnh trời. Biết mệnh trời để phục tùng nó một cách
tuyệt đối, đó là phận sự của người quân tử và để thi hành cho đời cái đạo của
thánh nhân. Thi hành đường lối trị nước của Khổng Tử chính là thi hành đạo
của Chu Công, ông luôn coi Chu Công - một công thần của nhà Chu - là bậc
thánh mà đạo của Khổng Tử cũng chính là đạo của Chu Công. Tuy nhiên trong
hoàn cảnh xã hội loạn lạc, suy vi như vậy Khổng Tử khuyên mọi người hãy tập
trung giải quyết vấn đề trước mắt đó là lập lại kỷ cương trật tự xã hội “quân
quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” (Luận ngữ, Nhan uyên). Có nghĩa rằng vua
phải xứng đáng là vua, thần phải xứng đáng là thần, cha phải xứng đáng là cha,
con phải xứng đáng là con. Còn việc đối với trời đất, quỷ thần thì ông tỏ ra thờ
ơ. ở đây một điểm đáng lưu ý là: vì ông xuất phát từ giai cấp quý tộc trên đà
suy yếu để đề xuất học thuyết của mình nên phải mượn “tấm áo choàng thần
bí” khoác lên, làm cho học thuyết của mình có sự tin cậy, có uy tín cao hơn.
Mặt khác, ông cũng thấy rõ rằng trời, quỷ thần không thực sự tham gia vào
đời sống thực tiễn. Chính sự không triệt để và mâu thuẫn này của ông mà sau
này Nho giáo chia thành hai khuynh hướng có quan điểm về thế giới trái ngược
nhau: khuynh hướng duy tâm của Mạnh Tử và khuynh hướng duy vật của Tuân
Tử. Ông nói “đối với quỷ thần thì kính nhi viễn chi”(Luận ngữ, Ung giã), tức
đối với quỷ thần thì cung kính mà tránh xa. Khi Quý Lộ - học trò của ông - hỏi
về đạo thờ quỷ thần, ông nói: “đạo thờ người còn chưa thấu hiểu sao biết đạo
thờ quỷ thần .Sự sống còn chưa biết, sao biết được sự chết” (Luận ngữ, Tiến
tấn). Ông muốn mọi người đề cao năng lực của chính mình và khuyên mọi
người hãy nỗ lực, tận tâm làm việc, sau đó thành bại mới nói đến mệnh trời.
- Quan niệm về chính trị - xã hội: có thể nói đóng góp nổi bật nhất trong
triết học của Khổng Tử là lý luận về chính trị - xã hội. Trên cơ sở về nhu cầu
xã hội của xã hội Trung Quốc cổ đại về việc chuyển giao giữa hai hình thái xã
hội mà ông trực tiếp chứng kiến, ông muốn xây dựng một học thuyết nhằm
giúp các bậc trị nước lập lại kỷ cương xã hội phù hợp với sự chuyển biến của
lịch sử. Để thực hiện được điều này theo Khổng Tử xã hội phải thi hành một
cách nhất quán những tư tưởng về “Nhân, Lễ, Chính danh”, đặc biệt phải thực
hành giáo dục đối với tất cả mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội. Vì theo
Khổng Tử thì chỉ có giáo dục và thông qua giáo dục con người trong xã hội
mới có “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Dũng” và mới thi hành được “Chính danh”.
Nhân: được coi như là phạm trù trung tâm và cơ bản nhất của triết học
Khổng Tử. Nhân gồm chữ “nhân đứng” và chữ “nhị” ghép lại, theo Lệ thần
Trần Trọng Kim thì đó là sự kết hợp giữa cái đức chung của mọi người đều có
lại với nhau. “Nhân” không chỉ riêng một đức tính nào mà nó chỉ chung cho
mọi đức tính. Người có “nhân” là người hoàn thiện nhất có thể sánh với “thánh
nhân”, là thần, thánh. Suy cho cùng “nhân” tức là đạo làm người. Đạo làm
người nó thể hiện bằng tất cả mọi động thái của con người trong cuộc sống xã
hội của con người đối với bản thân và đối với người khác. Có thể hiểu “nhân”
một cách nôm na là thái độ cư xử với mình và với người.
Đối với mình, người có “nhân” “trước hết phải làm việc khó sau đó
hưởng thành quả mới gọi là nhân” (Luận ngữ, Ung giã). Người có “nhân”, cái
cao cả nhất là “đức nhân” của mình tức là vì nhân mà hại thân chứ không phải
vì thân mà hại nhân. Cũng vì “nhân” mà con người phải tự khép mình khuôn
theo lễ tiết của xã hội. Nhan Uyên hỏi Khổng Tử về “nhân” ông đáp: “khắc kỷ
phục lễ vi nhân” (Luận ngữ, Nhan uyên), tự mình, răn mình, sửa mình, dạy
mình theo khuôn phép thì trở thành “nhân”. Khổng Tử nói với Tử Trương:
“người có đức nhân là người nghiêm trang tề chỉnh, rộng lượng, khoan dung,
đức tính, lòng thành, siêng năng, cần mẫn và biết thi ân bố đức”. (Luận ngữ,
Dương hoá).
Đối với người, người có “nhân” không chỉ đối với mình có “nhân” mà
đối với người cũng phải như vậy. Người “nhân” muốn tự lập lấy mình thì trước
hết phải lập cho người đã, muốn thành đạt thì cũng lo cho người thành đạt,
“người nhân ứng xử với mình thế nào thì đối với người cũng thế ấy” (Luận
ngữ, Ung giã). Người “nhân” không khi nào làm trái đạo, cái lẽ hành động, thi
hành đức nhân của Nho gia được thể hiện trên một lập trường kiên định, trước
sau như một. Nhân là yêu người như yêu mình “điều gì mà mình không muốn
thì đừng đem đến cho người” (Luận ngữ, Vệ Linh Công). Phạm trù “nhân” của
Khổng Tử vừa mang hàm ý cao siêu chỉ có thánh nhân mới đạt được, vừa có ý
bình thường mà ai cũng có được : “người như Nhan Hồi mà “nhân” chỉ có thể
giữ được ba tháng còn người khác chỉ có thể giữ được một ngày thôi”(Luận
ngữ, Ung giã). Ông cho rằng chỉ người quân tử mới có “nhân” và cũng chính
họ mới biết cách làm thế nào để những hành vi xử sự của họ đúng với “nhân”,
cũng như đánh giá hành vi của người khác về “nhân”.
Phạm trù “nhân” của Khổng Tử nói tóm lại là biểu hiện của hai chữ
“Trung” và “Thứ”. “Trung” là thành tâm thành ý, là trung thành, là mẫn cán
luôn chung thuỷ một lòng. Người quân tử khốn cùng vẫn giữ đạo, kẻ tiểu nhân
khốn cùng thì làm càn. “Thứ” là tấm lòng thông cảm, hiểu biết chia sẻ, hoá
thân, đặt lòng mình vào lòng của người khác, đặt vị trí của mình vào vị trí của
họ. Chính vì thế mà “đạo” của Khổng Tử chỉ cần một chữ cũng đủ để bao quát
tất cả. Khổng Tử nói rằng : “đạo của ta chỉ có một mà quán thông hết thảy”
Tăng Tử đáp “dạ vâng, quả vậy”. Môn nhân khác bèn hỏi: “vậy có nghĩa là gì”,
Tăng Tử đáp: “đạo của thầy chỉ có “trung thứ ”vậy”. (Luận ngữ, Lý nhân).
Kẻ có nhân là kẻ có tình cảm chân thành, bao giờ cũng hết lòng vì nghĩa,
cho nên người đó bao giờ cũng hiếu đễ, lễ nghĩa, trung thứ. Khổng Tử nói : “
cương nghị mộc nột cận nhân ”(Luận ngữ, Tử lộ), nghĩa là cứng cáp mà lời nói
chất phác là gần với nhân vậy. Nhờ có “lòng nhân” nên mọi người mới coi
nhau như anh em, cả đoàn thể coi như một người. Như vậy, một người đau thì
nhiều người buồn. Bởi vì, mọi người như các bộ phận trên cơ thể con người
vậy, một bộ phận bị đau thì các bộ phận khác ảnh hưởng. Kẻ bất nhân thì
thường khôn khéo, trí thuật vì lợi ích mà lừa trên gạt dưới, dối trá, phản loạn,
không thực lòng. Khổng Tử nói: “xảo ngôn, lịnh sắc tiễn hĩ nhân”(Luận ngữ,
Học nhi), nghĩa là bề ngoài nét mặt không thuần chính, giả tạo, lời nói sắc sảo
thì ít nhân.
Như đã nói trên “nhân” là một phạm trù đóng vai trò trung tâm của
Khổng giáo. Nhờ có nhân mà con người sống với nhau trong xã hội có bầu
không khí chan hoà thân ái, “người” hơn, có cuộc sống thái bình, thịnh trị.
Người quân tử, đặc biệt là vua nắm chính sự, cai trị muôn dân mà không có
“nhân” thì xã hội sẽ bị loạn. Bởi vì, đức “nhân” là cứu cánh của họ, người có
“nhân” thì “như sao Bắc Đẩu, mọi ngôi sao khác phải hướng về”(Luận ngữ, Vi
chính), không dùng đức “nhân” mà trị thì xã hội rối loạn. Ông chủ trương dùng
đường lối “Nhân trị” để thi hành “đạo” của mình nhằm ổn định chính trị xây
dựng quốc gia thái bình.
Lễ. Con người thể hiện “đức nhân” của mình thông qua các hành vi ngôn
ngữ, thái độ . gọi là “lễ”. Chữ “lễ” trước hết dùng để chỉ cách thờ thần tức là
cúng tế, hành lễ. Sau nữa là dùng chỉ những qui chế, phong tục tập quán được
xã hội thừa nhận. Cuối cùng là để chỉ những qui ước bắt buộc của vua chúa đối
với thần dân thuộc quyền cai quản của họ. “Lễ” là hành vi biểu hiện ra bên
ngoài của con người khi thực hiện “nhân”, rõ ràng trong trường hợp này “lễ” là
hình thức, sự biểu hiện bên ngoài của “nhân”. Còn “nhân” là cái bên trong
được thi hành biểu hiện ra ngoài bằng cách thông qua “lễ”. Như vậy, “nhân” là
nội dung, “lễ” là hình thức.
Thi hành “lễ theo Khổng tử đó là giữ hoà khí cho xã hội, nghĩa là nhờ “lễ”
mà xã hội duy trì thịnh trị, thái bình, hoà thuận trung dung, ông viết: “tác dụng
của lễ là lấy hoà làm quí ”. Khổng tử chủ trương với con người ai ai cũng phải
thực hành “lễ”. Từ khi chào đời cho đến khi nhắm mắt ngay cả khi ngồi một
mình cũng phải thực hành “lễ”. Ông cho rằng việc thực hành “lễ” rất quan
trọng, cần thiết và nhất là phải thành tâm. Theo Lệ Thần Trần Trọng Kim thì
“lễ” của Nho giáo thực thi nhằm 4 mục đích:
Thứ nhất, mục đích của nó là rèn luyện con người, tu tâm, dưỡng tính tạo
cho con người có điều kiện phát dương “đức nhân”. “Lễ” theo mục đích này là
chú trọng đến đạo đức tạo cho con người một trạng thái tình cảm nhân ái, trong
sáng, thành tâm, thanh cao. Ví như khi tế lễ tổ tiên, ba ngày trước đó để ý
chăm chăm vào việc tế lễ, đến ngày tế lễ thì coi như thật là trông thấy cha ông,
tổ tiên, thành ra cái tình cảm nó trào dâng mạnh mẽ. Ông cho rằng: “tế không
phải là cái vật ở bên ngoài đến, mà nó ở trong bụng, tâm ta tự sinh ra”(Lễ kí,
Tế thống).
Khổng giáo dùng “lễ” là cốt tạo ra một trạng thái tâm lí, lễ nghĩa, nghiêm
trang khiến cho con người tự tạo ra một tập quán đạo đức tốt đẹp toàn điều hay
lẽ phải. Như ở chổ mồ mả cha dạy lòng thương mà có lòng thương, ở chổ xã
tắc, tông miếu cha dạy thành kính mà đã có lòng thành kính.
Thứ hai, mục đích của “lễ” là giữ đúng những tình cảm cho thích hợp với
đạo trung. “Lễ” được thực thi nhằm nắn đường, chỉ lối cho con người thực hiện
“đạo nhân” trong một chừng mực, qui củ, tránh tự do, thái quá. Vì nếu tự do
mà hành động thì mắc phải sai lầm, chệch lối. Quá cũng không được, thiếu
cũng không nên, đó chính là phù hợp với đạo trung. Nhan Uyên là bậc thấu đạt
“đạo nhân” hơn cả. Khổng tử bảo rằng: “sắc gì không phải lễ thì đừng nhìn,
điều gì không phải lễ thì đừng nghe, lời gì không phải lễ thì đừng nói, việc gì
không phải lễ thì đừng làm “(Luận ngữ, Nhan uyên). Đó là cách giữ cho hành
vi của con người có một chừng mực nhất định, lấy “lễ” làm tiêu chuẩn cho mọi
hành vi.
Hai mục đích này có mối quan hệ với nhau mật thiết. Đạo Khổng thi
hành “lễ” không những để cho con người có một hành vi đạo đức tốt đẹp, nhân
đạo mà còn khiến cho những hành vi đó được thực thi sao cho đúng, ngay
thẳng, không thiên lệch. Đây là điều trọng yếu trong Nho giáo, bởi nó không
chỉ cần con người có tâm tính tốt, nhân ái, mà còn đòi hỏi con người phải xử
sự, hành động một cách công minh, phù hợp, không thiên vị.
Thứ ba, mục đích của “lễ” là phân định phải trái, trật tự, phân minh. Nhờ
vậy mà định danh phận, địa vị của con người trong xã hội được rõ ràng. ở
trong xã hội có vua tôi, cha con, vợ chồng, có kẻ thân người sơ, có việc trái
việc phải cho nên cần có “lễ” để phân biệt cho rõ mọi lẽ, khiến cho mọi người
trong xã hội hành động đúng, hợp với “lễ”. Nhờ có “lễ”mà xã hội có trật tự,
nhờ vậy mà mọi vật đều được phân định rõ ràng, “nếu không có lễ thì làm thế
nào mà biết cách thờ trời đất, quỉ thần cho phải, lấy gì mà phân biệt đạo vua tôi
cho phải”(Lễ ký). Lễ cũng là phép tắc để tổ chức thi hành đạo đức, luân thường
trong gia đình, kỷ cương, luật lệ trong xã hội.
Thứ tư, mục đích của “lễ” là để tiết chế, kìm hãm cái tư dục, trái đạo của
con người. Theo Khổng tử, con người là thụ khí tính của trời, của tự nhiên do
tiếp xúc với đời mà sinh ra động, vì động mà sinh ra tình, vì do có tình là cái tư
riêng cho nên phải có “lễ” để tiết chế kìm hãm tình lại, nếu không tình sẽ làm
cho “thiên tính” mất đi. Khổng giáo vốn trọng tình cảm, nhưng vẫn biết tình
cảm của con người mà không có lí trí thì sẽ bị hư hỏng, sai lầm. Cái tư tình của
con người thường ở dạng tiềm ẩn không thể nào mà diệt trừ nó được nên “lễ”
chính là “rào cản” ngăn nó lại, không cho nó tự ý vươn vượt ra ngoài. Giáo hoá
của “lễ” có tác dụng ngăn chặn thói hư, tật xấu nhằm hướng con người dần tiến
đến điều thiện, “người giàu biết lễ thì không dâm tà, kiêu căng; người nghèo
mà biết lễ thì không làm bậy, nản chí; người làm vua làm chúa biết lễ thì mới
trị được nước, mới yên được dân” (Lễ ký, Kinh giãi).
Tóm lại, “lễ” có một tác dụng rất to lớn, nó bao trùm tất cả mọi hành vi
của con người trong xã hội. Bậc thánh nhân sử dụng “lễ” mà cai trị thì ân trạch
đưa đến cho muôn dân, xã tắc yên bình thịnh trị. Khổng Tử rất chú trọng “lễ”,
không chỉ cần cho thiên hạ mà còn rất cần cho cả bản thân mình “khắc kỉ phục
lễ vi nhân”, tự sửa mình theo lễ là nhân. Ngay cả chính bản thân ông là một
tấm gương sáng về thực hành “lễ”. Sách Luận ngữ, ở thiên Hương Đảng có ghi
rằng “khi vua lâm triều thì ông cung kính có vẻ không yên tâm, mà không mất
đi vẻ uy nghi. Khi vô cửa lớn của triều đình ông lom khom như cửa quá thấp,
khi đi ngang qua ngai vàng của vua (dù không có vua) ông cũng biến sắc, chân
bước run run, nói như chẳng ra lời ”. Không phải ông quá sợ sệt hay mất tự tin
mà như vậy, điều mà ông muốn thể hiện ra đây đó là “lễ”. “Lễ”của chế độ nhà
Chu mà Chu Công Đán là người được Khổng tử coi là bậc thánh nhân truyền
lại, và ông sẽ là người khôi phục. Và điều mà ông muốn nói ở đây nữa là phải
tôn trọng “danh”, thực ra ông chỉ tôn cái địa vị mà ông vua kia ngồi thôi, là cái
ngôi vua ấy còn con người làm vua đấy thì chắc gì.
Chính danh: từ việc dùng “lễ” để thực hành “đức nhân” ông chủ trương
học thuyết “chính danh”. “Chính danh” thực ra là bước cụ thể hoá “lễ” được
áp dụng vào tư tưởng chính trị. “Chính danh” được coi như là một phát kiến
mới của ông. Xuất phát từ sự biến đổi trật tự của xã hội Trung Hoa cổ đại
“vương đạo suy vi, bá đạo lấn át” vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha
không ra cha, con không ra con. , giới cầm quyền sa đoạ, chính sự rối ren, qui
tắc lề lối, bị phá vỡ ông chủ trương lập lại trật tự xã hội bằng việc thực hiện
“chính danh”. “Chính danh” là đưa lại công dụng cho con người, sự vật mà
công dụng đó đã được định trước phù hợp với tên gọi mà họ đã đặt nên, người
ta gọi nôm na là “danh” với “thực” hợp với nhau tức là “danh chính”. Khổng
Tử chủ trương học thuyết “chính danh” vào việc thi hành chính sự. Ông đề ra:
“chính sự là làm cho mọi việc ngay thẳng, công minh, nếu ngài (Quý Khương
Tử, người đoạt ngôi vua nước Lỗ ) đi đầu trong dân chúng về việc này thì ai
dám ăn ở hai lòng, hai dạ” (Luận ngữ, Nhan uyên). Theo ông mỗi người, mỗi
vật trong xã hội đều có một công dụng nhất định, nằm trong mối quan hệ xác
định mỗi vật, mỗi người đều có địa vị bổn phận và tương ứng với nó là một
“danh” nhất định. Mỗi “danh” đều có tiêu chuẩn riêng. Người nào, vật nào
mang “danh” nào phải thực hiện và thực hiện bằng được những tiêu chuẩn của
“danh” đó gọi là “chính danh”, nếu không thì phải gọi bằng “danh khác”. Phân
“danh”, định phận xong rồi thì xã hội mới trị, Khổng Tử nói rằng: “nếu danh
bất chính thì lời nói không đúng; lời nói không đúng thì dẫn tới việc làm sai;
nếu việc làm sai thì lễ nhạc không thành; lễ nhạc không thành thì chế độ không
được lập; chế độ không được lập thì hình phạt không đúng; hình phạt không
đúng thì dân biết làm sao cho phải, cho nên người quân tử đã dùng cái danh ắt
phải nói ra được, điều gì đã nói ra được ắt phải làm được”(Luận ngữ, Tử lộ).
Chính vì điều này mà những kẻ quân tử, nhà cai trị phải nắm chắc “chính
danh” và luôn thực hiện “chính danh” để chính trị được thịnh vượng. Nếu
không thì “dân không có chỗ cậy trông, nhờ vã; không cậy trông, nhờ vã được
thì dân mất lòng tin; mất lòng tin thì không phục tùng tất xã tắc khó mà tránh
khỏi suy sụp”(Luận ngữ, Nhan uyên). Người trên phải giữ mình cho ngay chính
và làm việc gì cũng phải giữ cái danh cho ngay chính. Một hôm Tử Lộ hỏi
thầy, nếu vua Vệ giao chính sự cho thầy thì thầy phải làm việc gì trước?.
Khổng Tử trả lời: “ắt phải chính danh trước”(Luận ngữ, Tử lộ). Một điều nữa,
đó là chính danh của người trên sẽ làm cho người dưới nhìn nhận mà làm theo,
“mình ngay chính thì không sai khiến người ta cũng làm theo, mình không
ngay chính thì tuy có sai khiến cũng không có ai theo” (Luận ngữ, Tử lộ).
Khổng Tử đã áp dụng “chính danh” trong hành động của ông một cách
nhất quán. Trong Kinh Xuân Thu đã thể hiện điều này rất rõ ràng. Ông thận
trọng trong việc dùng từ ngữ, chữ nghĩa để phân biệt đúng đắn các hiện tượng
xã hội. Cái chết của thiên tử trong Kinh Xuân Thu được ông gọi là “băng”, cái
chết của vua như hầu được gọi là “hoăng”, cái chết của vua tiếm ngôi gọi là
“tồ”, cái chết của quan chính trực, liêm khiết gọi là tốt, cái chết của kẻ nịnh
thần gọi “tử”. Trong lễ nghi nhà Chu được Chu Công truyền lại quy định:
“thiên Tử dùng vũ “bát dật” gồm có tám hàng, mỗi hàng có tám người múa
hát; như hầu dùng vũ “lục dật” gồm có sáu hàng, mỗi hàng có sáu người múa
hát; quan đại phu thì dùng vũ “tứ dật” gồm bốn hàng, mỗi hàng có bốn người
múa hát. Quan đại phu nước Lỗ là Quý Hoàn Tử theo lễ thì chỉ được dùng vũ
“tứ dật”, nhưng ông ta lại dùng lễ vũ “bát dật” tức tự cho mình ngang hàng với
thiên tử, trên cả vua nước Lỗ. Khổng tử cho rằng Quý Hoàn Tử đã “tiếm lễ”,
khi quân phạm thượng trái với nguyên tắc ”chính danh” mà ông đã đặt ra, việc
nhẫn tâm này mà làm được thì không có việc nhẫn tâm nào mà không dám làm.
Ông cũng nói rằng “chính danh” là làm tròn bổn phận của bản thân mình với
công việc của mình “bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính”, là không ở chức vị nào
thì không được mưu tính công việc của chức vị đó. Thiên hạ, xã tắc sẽ loạn nếu
thứ dân bàn đến chính trị. Đại phu nắm chính quyền mà dân lại đi bàn việc
nước rõ ràng trái với quy tắc “chính danh”. Danh đã chính, thì việc nào cũng
có công dụng riêng của nó những điều tà thuyết không thể làm lu mờ được nó.
Mọi người, mọi vật đều có địa vị chính đáng của mình trên dưới phân minh,
cao sang thấp hèn đã rõ, ai có phận nấy. Nếu người kém cỏi đứng ở địa vị cao
theo Không Tử đó là “ăn cắp” địa vị, phải nhường lại cho người giỏi hơn. Giữ
trật tự cho phân minh rõ ràng danh phận đúng đắn, nghiêm minh đó là đều căn
bản của “chính danh” mà Khổng Tử mong muốn thi hành.
- Quan điểm về giáo dục, để xã hội thực hiện ‘chính danh” thật tốt, trước
hết phải có một nền giáo dục thật tốt, mỗi người phải được giáo dục và tự giáo
dục, chính nhờ giáo dục mà mỗi con người nhận thức được vị trí, thân thế của
mình mà hành động cho đúng “lễ”. Lý luận về giáo dục của Khổng Tử là lý
luận quan trọng trong hệ thống triết học của ông. Tư tưởng của nó, đã vượt qua
những hạn chế mà lịch sử mắc phải như tư tưởng về giai cấp, hạn chế về nhận
thức, ông chủ trương “hữu giáo vô loài”. Mục đích tối cao nhất trong quan
điểm giáo dục của Khổng Tử là dạy làm người, dạy cho con người trở nên nhân
nghĩa, trung chính để trở thành người quân tử. Ông đề cao giáo dục coi đó là
một phương tiện để bậc quân tử đạt được điều “nhân”, trong phạm trù “nhân”
này có nhiều nội dung, đầu tiên và quan trọng đó là “trí”.
Theo Khổng Tử người có “nhân” là người có “trí”. Nhưng ông nói rằng
“trí” là không phải do tự nhiên mà có, nó phải trãi qua quá trình học tập, tu
dưỡng, đây phải là quá trình bền bỉ lâu dài. Khổng Tử cho rằng : “trí là biết
người, là dùng người trực, bỏ kẻ gian, như vậy có thể giáo hoá kẻ gian thành
người trực” (Luận ngữ, Nhan uyên). “Trí” là sự minh mẫn, trí tuệ dùng để phán
xét, đánh giá, xử sự tình huống cho phải đạo, Khổng Tử nói: “hãy để bị lừa gạt
bởi những điều có lý chứ đừng bị mê hoặc bởi những điều đần độn” (Luận
ngữ, Ung giã). “Trí” là một thuộc tính của “nhân”, không thể có “nhân” mà
không có “trí” , “trí” là một quá trình học hỏi trong cuộc sống, “học tức đi gần
đến với trí” (Trung dung) nếu không học thì dù có thiện tâm đến đâu cũng bị
cái ngu muội, phóng đãng, lầm lạc, phản loạn làm biến chất.
Mục đích cao nhất của việc học theo Khổng Tử là để nhậm chức triều
đình, tham gia gánh vác công việc của quốc gia, để biết kỷ cương xã hội mà
tuân theo “trong lúc xã hội rối ren không ra làm quan không phải là người trí,
không ra giúp đời không phải là người nhân” (Luận ngữ, Dương hoá). Sự học
của con người là làm sáng cái đức sáng của thánh nhân, học để hành theo cái
đức sáng đó. Học đức sáng của người xưa ban ân trạch cho muôn dân là mong
muốn thực sự của kẻ sĩ nho học. Vì vậy, Khổng Tử nói: “người xưa vì mình
mà học, người nay vì người mà học” (Luận ngữ, Hiến vấn). “Học để làm quan
nên chỉ cần học đủ lễ, nghĩa, tín thì dân bốn phương đem con đến phục vụ
mình cần chi phải học nghề cày cấy” (Luận ngữ, Tử lộ). Ông cho các nghề
khác là nghề của kẻ bậc dưới, người có đức nhân chỉ cần tu tâm dưỡng tính
của bậc thánh nhân thì thiên hạ đổ về mà phục tùng như sao Bắc Đẩu toả sáng
để các ngôi sao khác hướng về vậy.
Giáo trình dạy học cơ bản của Khổng Tử dùng để khai sáng là Kinh Thư,
Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu. Là một nhà giáo dục lớn ông
chủ trương dạy cho tất cả mọi người không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo,
chủng tộc. Nhưng mặt khác ông lại chủ trương “đối với dân việc gì cần thiết
thì sai khiến chứ không nên giảng giải vì họ không có khả năng hiểu ý nghĩa
của việc mình làm”(Luận ngữ, Thái bá). Giải thích cho ý kiến có vẻ mâu thuẫn
trên, chúng ta làm quen với quan điểm “tính tập luận” của ông, con người sinh
ra vốn giống nhau nhưng do tập nhiễm mà khác nhau, mục đích của việc giáo
dục là tác động vào con người để cải tạo, giáo hoá trở thành con người tốt
hơn, tuy con người sinh ra nhân cách bẩn sinh là giống nhau nhưng do hoàn
cảnh, địa lý, môi trường, điều kiện sống và phong tục mà dần đem lại sự phát
triển khác nhau. Ông vua học để làm ông vua sáng, thứ dân học để biết tiếp
nhận sự cai trị.
Trong quá trình giáo dục ông khuyên học trò nên tự tin ở chính bản thân
mình, “không oán trời , không trách người, về đạo lý thì khởi học từ thấp đến
cao” (Luận ngữ, Hiến vấn), và điều quan trọng là phải biết nghe nhiều, học
nhiều, biết được điều hay, để học thấy được điều dở để tránh. Ông trình bày
một phương pháp học tập tiến bộ, đó là xoá bỏ tính thụ động của người học,
phát huy năng lực tư duy sáng tạo trong quá trình tiếp thu kiến thức. Ông nói:
“kẻ nào không cố công tìm kiếm thì ta chẳng chỉ vẽ, kẻ nào không bộc lộ được
tư tưởng của mình ta chẳng khai sáng cho, kẻ nào học một mà không biết hai
thì ta chẳng dạy nữa” (Luận ngữ, Thuật nhi). Ông quả là một nhà giáo dục vĩ
đại, phương pháp dạy học của ông cách đây 2500 năm cho đến bây giờ người
ta vẫn còn áp dụng. Trong các trường đại học trên thế giới hiện nay, các giáo
sư, thầy giáo chỉ là người hướng dẫn còn chính sinh viên là người tự đi tìm lời
giải đáp cho mình bằng các hướng dẫn của thầy giáo. Ông bắt học trò phải suy
nghĩ nghiền ngẫm, “học mà không suy nghĩ thì không thấu tình đạt lý, không
hiểu rõ ràng, suy nghĩ mà không học thì bế tắc, mờ tối dẫn đến chuyên quyền,
độc đoán bảo thủ. Ông khuyên học trò phải: “tự hỏi mình rằng ta phải làm
sao?, phải làm bằng cách nào?, có như vậy mới học thành tài được” (Luận ngữ,
Vệ Linh Công).
Về bản thân mình, trong giáo dục ông rất coi trọng nguyên tắc làm gương.
Điều đó được phản ánh trong các buổi đàm đạo về chính sự với quan lại triều
đình và những lời khuyên dành cho học trò. Chính bản thân ông luôn luôn tự
mình “khắc kỷ phục lễ vi nhân” trọn cuộc đời. Ngoài ra ông cũng coi trọng
“thuyết giáo tuỳ nghi”, tức xem qua ngôn ngữ và hành vi của học trò mà
truyền cho nội dung giáo dục phù hợp.
Tất cả những gì mà Khổng Tử đã cống hiến cho giáo dục của nhân loại là
hoàn toàn xứng đáng để ông trở thành một nhà giáo dục lớn, xứng đáng để
người đời sau tôn vinh ông là “vạn thế sư biểu”, người thầy của muôn đời.
Song quan điểm giáo dục của Khổng Tử mới chỉ dừng lại ở mức độ giao tiếp,
lễ nghi chứ không hẳn là để mở mang dân trí nói chung.
Theo Khổng Tử người có “nhân” có “trí” khi hành động phải có “dũng”.
“Dũng” đó là lòng can đảm, là sức mạnh để làm chủ tình thế của con người.
Ông nói: “người trí chẳng bị mê hoặc, người nhân chẳng buồn rầu người dũng
chẳng sợ sệt” (Luận ngữ, Tư hãn). Với Khổng Tử không bao giờ có việc tách
rời, phân chia giữa “nhân - trí - dũng”. Khổng Tử cha bao giờ giảng giải cho
học trò bốn việc: “quái dị”, “dũng lực”, “phản loạn”, “quỷ thần”. Vì bàn về
quái dị khiến người ta bỏ lẽ thông thường; bàn về dũng lực khiến người ta gây
gỗ; bàn về phải loạn khiến người ta sinh tâm nghịch tặc; bàn đến quỷ thần
khiến người ta u mê ám muội. Tuy vậy, ai đủ “nhân, trí, dũng” thì tất nhiên họ
đã thấu đạt lẽ phải trái nên không lo họ sai lầm, họ đã đủ “chín” để phân biệt lẽ
công bằng, “nếu thấy việc nghĩa mà không làm thì người đó thiếu dũng khí”
(Luận ngữ, Vi chính).
- Về đạo đức, trong giáo dục do nhìn thấy sức mạnh của đạo đức mà ông
đề xuất đường lối chính trị “đức trị”. Đạo đức và pháp luật đều là những
nguyên tắc, chuẩn mực điều chỉnh hành vi của con người với con người, giữa
cá nhân và xã hội. Tuy vậy, giữa pháp luật và đạo đức không hoàn toàn đồng
nhất, pháp luật là những yêu cầu tối thiểu còn đạo đức là những yêu cầu tối đa;
pháp luật từ bên ngoài bắt buộc phải làm, đạo đức từ bên trong, thực hiện tự
giác. Hình phạt sẽ được đưa ra đối với những hành vi phạm pháp căn cứ vào
hậu quả đã xảy ra, chứ không thể trừng trị sự vi phạm đang còn nằm trong ý đồ
của kẻ phạm tội. Đạo đức thì khác, ý thức đạo đức sẽ “trừng trị” mình ngay khi
mình nghĩ đến hành động gây ra hậu quả sai trái nào đó. Chính vì vậy, khi vai
trò của đạo đức được đề cao đến một mức độ nhất định và sự tự ý thức bị trừng
phạt bên trong cao hơn sự tự ý thức trừng phạt bên ngoài thì sự thi hành pháp
luật trở nên thừa. Điều này có thực hiện được hay không phụ thuộc rất nhiều
vào ý thức đạo đức của mỗi thanh viên trong xã hội, vào sự tiếp nhận sự giáo
dục và tự giáo dục của mỗi thành viên đó. Trong cuộc đời của mình Khổng Tử
đã cố gắng sử dụng vai trò của giáo dục để hình thành ý thức, đạo đức cho mọi
người, để đề cao vai trò giáo dục và tự giáo dục cho mọi người. Với chính trị,
đạo đức luôn thống nhất với chính trị. Không có quy phạm đạo đức nào mà
luôn phù hợp với các chế độ chính trị khác nhau, tức là tương ứng với một chế
độ chính trị thì có một qui phạm đạo đức.
Vì lẽ đó, trong giáo dục ông luôn chú trọng đến đạo đức, đó là việc hiếu
học, ham mê dốc lòng tin vào học, phải có chí quyết tâm thực hành, thực hiện
để tạo một phương châm tu dưỡng, rèn luyện con người nhằm đạt đến một ý
thức đạo đức nhất định. Với đạo đức như vậy, con người trong xã hội của
Khổng Tử thực hiện đạo của mình đó là “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”.
1.2.1.2. Mạnh Tử (372 - 289 TCN).
Mạnh Tử tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư người gốc nước Trâu thuộc miền
nam, tỉnh Sơn Đông ngày nay. Ông sinh vào đời Chu Liệt vương thứ 4 và mất
vào đời vua Chu Noãn Vương thứ 26. Cha ông là Khích Công Nghi mất khi
ông lên ba tuổi thuộc dòng họ Mạnh Tôn, quý tộc ở nước Lỗ. Mẹ là của ông là
Cừu Thị, nuôi dưỡng giáo dục con cái với lễ nghĩa rất chặt chẽ. Trong sử Liệt
Nữ có chép rằng nhà ông ở gần nghĩa địa, lúc ấy Mạnh Tử còn nhỏ hàng ngày
thường vào nghĩa địa chơi, thấy người ta chôn cất người chết rồi khóc lóc, ông
cũng rủ chúng bạn cùng chơi trò đám tang. Mẹ ông cho rằng: “chỗ này chẳng
tiện cho con ta ở” bà bèn dời nhà đến gần chợ. Con bà lại bày trò chơi rao
hàng, bưng bánh, bán thịt. Bà lại tự nhũ: “chổ này chẳng tiện cho con ta ở ”, bà
dọn nhà đến gần trường học. Con bà mới bày trò chơi học theo lễ nhạc, Bà
nghĩ chỗ này mới đáng cho con ta ở vậy. Sử củ gọi là tích “Mạnh mẫu tam
thiên”. Sử ký của tư Mã Thiên chép rằng, khi lớn lên Mạnh Tử theo học thầy là
Tử Tư (cháu đích tôn của Khổng Tử). Hiểu rõ đạo lý của Khổng tử, lại có tài
biện thuyết nên đã trở thành một trong ba đại Nho của thời cổ đại. Với những
đóng góp của ông, người đời sau phong làm á Thánh. Để phát huy và bảo vệ
những tư tưởng của Khổng Tử, mong muốn dùng thuyết của mình để cứu đời,
Mạnh Tử đã đi khắp các nước chư hầu để truyền bá tư tưởng, chủ trương của
mình. Nhưng thủa đó các vị vua thường chỉ lo việc chiến tranh, cướp đất để tồn
tại nên không ai chú trọng đến nhân nghĩa do đó đạo của ông không được thi
hành. Sau khi về nhà ông mở trường dạy học và cùng các học trò chép lại
những lời ông đã bàn luận đối đáp với các vị chư hầu, tập hợp lại mà làm ra
bảy thiên sách Mạnh Tử. Sau này đến đời Tống, Chu Hy xếp nó vào những
sách kinh điển của Nho giáo gọi là Tứ Thư.
Thời kỳ lịch sử mà ông đang sống có thể gọi là thời kỳ bế tắc của xã hội
Trung Hoa về mặt chính trị. Các bậc trí giã nỗ lực tìm kiếm những giải pháp
hữu hiệu nhằm cai trị xã hội thái bình nhưng chưa giải quyết được. Có thể coi
thời kỳ này là thời kỳ của “Bách gia chư tử”, trăm hoa đua nở, trăm nhà lên
tiếng, nổi bật lên trong đó có các trường phái như Mặc gia của Mặc Địch, Đạo
Lão Trang của Trang Tử, Dương Chu, Pháp gia của Thận Đáo, Thương Ưởng,
ngoài ra còn có Tung Hoành gia theo nghiệp du thuyết ngoại giao, Âm -
Dương gia thiên về thiên văn, tướng số. Tư tưởng của mỗi nhà chẳng hề giống
nhau, nhưng mỗi nhà đều có sự tự do về suy nghĩ và biểu đạt tư tưởng của

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét