1.1.1 Công tác Quản lý đất đai ở Việt Nam trước cách mạng tháng Tám 1945
*Trong thời kỳ đầu lập nước: Thời kỳ này quan hệ đất đai có nhiều hình
thức sở hữu khác nhau quyền sở hữu tối cao thuộc về Nhà vua và của các quan
lại, một phần thuộc công xã nông thôn.
*Trong thời kỳ Bắc thuộc: Hình thức sở hữu của công xã nông thôn vẫn
tồn tại và phát triển vững chắc. Hình thức này được duy trì suốt một ngàn năm
Bắc thuộc. Mặc dù dưới sự đô hộ của phong kiến phương Bắc, hình thức này
không còn được nguyên vẹn như trước.
*Trong thời kỳ phong kiến:
+ Thời kỳ nhà Đinh- Lê: Quyền sở hữu tối cao thuộc về Nhà vua và các
quan lại, chế độ công xã vẫn được bảo tồn.
+ Thời kỳ Lý- Trần: Ruộng đất vẫn thuộc sở hữu của Nhà vua là chủ yếu, sở hữu
tư nhân được công nhận và dần phát triển. Ngoài ra còn có hình thức sở hữu tập thể.
+ Thời kỳ nhà Hồ và Hậu Lê: Vào thế kỷ XV chế độ sở hữu Nhà nước về đất
đai được xác định đầy đủ. Trong thời kỳ này, Nhà nước can thiệp nhiều vào quan hệ
đất đai nhằm tạo ra sự quản lý tập trung thống nhất vào tay Nhà nước.
Dưới thời nhà Hồ với chính sách ‘‘hạn điền’’ được ban bố nhằm củng cố chế
độ sở hữu của Nhà nước và hạn chế việc biến ruộng đất công thành ruộng tư.
Dưới thời nhà Lê Nhà vua đã ban hành chính sách ‘‘lộc điền’’ và ‘‘quân
điền’’, đồng thời tiến hành thống kê đất đai, lập sổ địa bạ nằm phân phối lại
ruộng đất công cho nhân dân. Đặc biệt trong giai đoạn này, Bộ luật đầu tiên ở
nước ta được ban hành là ‘‘Luật Hồng Đức’’ (1481). Trong đó có 60 điều nói về
Luật Đất đai. Tinh thần chính của luật là điều chỉnh quan hệ đất đai và triệt để bảo
vệ đất công, tuyên bố đất đai là tài sản của Nhà nước. Mặc dù vậy qúa trình tư hữu
về ruộng đất vẫn diễn ra trong xã hội và dần chiếm ưu thế.
+ Thời kỳ nhà Nguyễn: Thời kỳ nhà Nguyễn Tây Sơn (1789-1802): Sau
khi lên ngôi, vua Quang Trung ban hành chiếu khuyến nông, giảm nhẹ tô thuế
cho nhân dân, chiêu hồi dân phiêu tán.
5
Thời kỳ nhà Nguyễn (1802-1884): Thời kỳ này Gia Long, nhà Nguyễn
(1806) đã hoàn thành công tác đo đạc lập sổ địa bạ còn dở từ thời nhà Lê cho
18000 xã từ Mục Nam Quan tới Mũi Cà Mau. Nguyễn Ánh còn cho ban hành
Luật Gia Long, có 14 điều nói về Luật Đất đai. Trong đó xác định quyền sở hữu
tối thượng của Nhà vua đối với ruộng đất và chia ra ruộng đất công quản, đất tư
quản. Thuế đất được xác định cụ thể được thu triệt để cho ngân sách quốc gia.
Đến đời vua Minh mạng thực hiện chế độ hạn điền lần thứ hai, thành công trong
chính sách khai khẩn đất hoang nhà Nguyễn đã đặt hệ thống chính quyền sở hữu
từ Trung ương tới địa phương, ra sức bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất công.
Đến 1844, Nhà nước đã chấp nhận quyền cầm cố đất công một cách có
thời hạn của các làng xã. Sau này Nhà vua đã ban hành nhiều quy định củng cố
quyền tư hữu ruộng đất và đảm bảo quyền thu thuế ruộng đất.
+ Thời thuộc Pháp :Pháp hoàn thành cuộc xâm lược ở nước ta,chúng tự ý
điều chỉnh quan hệ đất đai theo ý chúng. Thực dân Pháp còn thực hiện chia cắt
nước ta thành 3 kỳ để dễ bề cai trị là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. ở mỗi kỳ
chúng áp dụng một chế độ chính trị và sử dụng chế độ quản lý đất đai khác
nhau. Cùng với bọn thực dân và tư bản Pháp, giai cấp địa chủ phong kiến cũng
ra sức bóc lột nhân dân, ruộng đất được tích tụ cao vào tay chúng. Quyền sở hữu
của bọn thực dân phong kiến được pháp luật của chính quyền bảo hộ bảo vệ.
Tóm lại trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám 1945 với hình thức sở hữu
Nhà nước về đất đai đóng vai trò chủ đạo, xuyên suốt qua các giai đoạn lịch sử. Tuy
nhiên cùng song song với chế độ sở hữu Nhà nước còn có chế độ sở hữu công xã tồn tại
dai dẳng qua các thời đại. Ngoài ra còn tồn tại chế độ sở hữu tư nhân về đất đai.
1.1.2. Công tác Quản lý đất đai ở Việt Nam sau cách mạng tháng Tám 1945
Sau cách mạng tháng Tám 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra
đời, ngành Địa chính được duy trì.
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân ta đã phải trải qua
một thời kỳ lịch sử phức tạp, nền kinh tế bị sa sút, lạc hậu. Cụ thể là nạn đói năm
1945. Để khắc phục tình trạng đó, Đảng và Chính phủ đã có chủ trương ‘‘Khẩn cấp
6
chấn hưng nông nghiệp’’. Để cứu đói cho dân các chính sách đất đai lúc này đều
nhằm chấn hưng nông nghiệp. Hàng loạt các Thông tư, Chỉ thị, Nghị định của Nhà
nước được ban hành nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp, Chính Phủ đã có nhiều chính sách
sử dụng đất hoang, đất vắng chủ, đất tịch thu từ bọn thực dân việt gian phản động. Từ
năm 1950, người cày được giảm tô khi canh tác trên đất vắng chủ.
Ngày 14/2/1953, Quốc hội thông qua luật cải cách ruộng đất, đánh đổ hoàn toàn chế
độ phong kiến thực dân. Triệt để thực hiện khẩu hiệu: “Người cày có ruộng’’.
Ngày 03/07/1958 cơ quan Quản lý đất đai được thành lập, đó là Sở địa chính thuộc
Bộ tài chính với chức năng chủ yếu là quản lý ruộng đất để thu thuế nông nghiệp.
Từ 1959, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng hình thức kinh tế tập
thể. Hiến pháp 1959 ra đời quy định 3 hình thức sở hữu ruộng đất là: Sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.
Ngày 14/12/19959 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 404/TTg cho
phép thành lập Cục đo đạc và bản đồ trực thuộc phủ Thủ tướng để nắm chắc địa
hình và tài nguyên đất.
Ngày 9/12/1960 Chính phủ ban hành NĐ số 70/NĐ - CP về việc chuyển ngành
Địa chính từ Bộ tài chính sang Bộ nông nghiệp và đổi tên thành ngành Quản lý ruộng đất.
* Giai đoạn 1980-1991: Hiến pháp 1980 quy định toàn bộ đất đai và tài
nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý bằng
pháp luật và quy hoạch. Thời kỳ này chúng ta chưa có một hệ thống tổ chức
quản lý đất đai đủ mạnh, chưa có quy hoạch sử dụng đất toàn quốc. Nhà nước
mới chỉ quan tâm chủ yếu tới đất nông nghiệp nên việc giao đất diễn ra tuỳ tiện.
Để khắc phục tình trạng đó, hàng loạt các văn bản pháp luật của Nhà nước về
đất đai được ra đời nhằm tăng cường công tác về quản lý, sử dụng đất.
+ Quyết định 201/CP ngày 01/7/1981 của Chính phủ về công tác quản lý
ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trên cả nước.
7
+ Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ về công
tác đo đạc bản đồ giải thửa nhằm nắm chắc quỹ đất trong cả nước để làm cơ sở
lập hồ sơ địa chính
+ Chỉ thị 100/CT-TW ngày 13/4/1981 của Ban bí thư TW Đảng về việc
khoán sản phẩm đến nhóm người lao động và người lao động trong nhóm HTX
nông nghiệp.
Ngày 08/01/1988 Nhà nước ban hành Bộ Luật Đất đai đầu tiên. Tiếp đó là
một dấu mốc quan trọng trong phát triển nông nghiệp là Nghị quyết 10/NQ-TW
ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị về việc giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử
dụng ổn định lâu dài. Đây là việc làm cụ thể để khẳng định việc chuyển biến từ
một nền nông nghiệp sản xuất tự cung tự cấp sang hướng sản xuất hàng hoá.
* Giai đoạn 1992-nay: Hiến pháp 1992 ra đời quy định “Đất đai thuộc sở
hữu toàn dân. Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và
theo pháp luật, đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước
giao đất cho các tổ chức cá nhân sử dụng ổn định lâu dài .”
Năm 1993, Luật Đất đai được ban hành lấy Hiến pháp năm 1992 làm
nền tảng. Điểm nổi bật của luật 1993 là cho phép người sử dụng đất có 5
quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế. Ngoài ra
Nhà nước còn có một loạt các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật
Đất đai. Đây là cơ sở pháp lý giúp người dân thực sự yên tâm đầu tư phát
triển sản xuất trên mảnh đất được giao.Điều 13 Luật Đất đai 1993 còn nêu
ra 7 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai. Tiếp theo Luật Đất đai 1993 là
Luật sửa đổi và bổ sung một số điều Luật Đất đai 1998 và 2001 để hoàn
thiện dần chế độ pháp lý về quản lý và sử dụng đất.
Trong giai đoạn hiện nay, gắn với quá trình đổi mới đất nước, Đảng và
Nhà nước ta đã xây dựng và ngày càng củng cố và hoàn thiện chế độ sở hữu
toàn dân đối với đất đai, đảm bảo việc quản lý, sử dụng đất có hiệu quả và
bền vững. Điều này đã được thể hiện qua Luật Đất đai 2003 ra đời ngày
26/11/2003 và có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2004 và một loạt các văn bản
8
dưới luật hướng dẫn việc thi hành Luật Đất đai 2003 như : Nghị định 181,
Nghị định 187, Nghị định 188 .
1.2. Cơ sở khoa học và tính pháp lý của công tác quản lý và sử dụng đất
Hiện nay phần lớn các quan hệ đất đai trên thế giới là sở hữu tư nhân về đất
đai. Ở nước ta tồn tại một hình thức sở hữu đất đai duy nhất : Sở hữu toàn dân, với
Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thực hiện quyền
làm chủ của mình bằng việc được Nhà nước trao cho QSDĐ. Nhà nước thực hiện
quyền sở hữu của mình bằng việc xác lập các chế độ pháp lý về quản lý và sử dụng
đất của cơ quan quyền lực dựa trên những đặc điểm thực tiễn của đất nước qua các
giai đoạn. Ngoài ra hệ thống các cơ quan chuyên môn của các cấp thực hiện việc
giám sát việc quản lý và sử dụng đất theo quy hoạch và theo pháp luật.
Cơ sở khoa học của hoạt động quản lý và sử dụng đất này được Nhà nước thể hiện
thông qua một loạt các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành.
+ Hiến pháp 1980 ra đời quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
thống nhất quản lý”. Điều này tiếp tục được khẳng định lại trong Hiến pháp 1992, Luật
Đất đai 1988, 1993, Luật sửa đổi năm 1998 và 2001 và Luật Đất đai 2003.
Như vậy, Luật Đất đai 1993 và 2003 là công cụ hỗ trợ cho đắc lực giúp cho
Nhà nước trong công tác quản lý nguồn tài nguyên đất đai. Cùng với Luật Đất
đai, Nhà nước cũng ban hành một loạt các văn bản pháp luật khác tạo ra một hành
lang pháp lý cho công tác quản lý và sử dụng đất.
+ Ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ đã ban hành quyết số 201/CP
về việc tăng cường thống nhất quản lý ruộng đất trong cả nước.
+ Chỉ thị 299/TTg ngày 18/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ về công tác
đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước.
+ Chỉ thị 100/CT - TW ngày 13/01/1981 của ban Bí thư Trung ương Đảng về mở
rộng khoán sản phẩm tới nhóm lao động và người lao động trong HTX nông nghiệp.
+ Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ quy định về giá đất
nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản
xuất nông nghiệp.
9
+ Nghị định số 73/CP ngày 25/10/1993 của Chính phủ về việc phân hạng,
tính thuế sử dụng đất nông nghiệp và bản đồ Nhà nước.
+ Nghị định số 02/CP ngày 15/01/1994 của Chính phủ quy định về quản
lý và sử dụng đất nông nghiệp.
+ Nghị định số 12/CP ngày 22/2/1994 của Chính phủ ban hành “Thành lập Tổng
Cục Địa chính trên cơ sở hợp nhất giữa Tổng cục quản lý ruộng đất và Cục đo đạc”.
+Nghị định số 34/CP ngày 23/4/1994 của Chính phủ ban hành “Chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Địa chính”.
+ Nghị định số 87/CP được Chính phủ ban hành ngày 17/08/1994 quy
định khung giá các loại đất và Nghị định số 90/CP về việc đền bù thu hồi đất để
sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh.
+ Nghị định số 89/CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ quy định về việc thu
tiền sử dụng đất và lệ phí địa chính.
+ Chỉ thị số 247 /TTg ngày 28/4/1995 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số
22/1998/NĐ-CP về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng.
+ Nghị định số 04/CP ngày 10/01/1997 của Chính phủ về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất.
+ Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 của Chính phủ quy định
về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử
dụng đất và thế chấp góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất.
+ Nghị định số 38/CP năm 2000 về thu tiền sử dụng đất.
+ Nghị định số 04/2000/NĐ-CP ngày 11/2/2000 của Chính phủ quy định
thi hành về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai.
+ Nghị định số 66/2001/NĐ-CP ngày 29/9/2001 của Chính phủ quy định
về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 04/2000/ NĐ-CP.
+ Nghị định số 68/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ về quy
họach, kế hoạch sử dụng đất.
10
+ Nghị định số 79/2001/NĐ-CP quy định về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 17/2001/NĐ-CP ngày 01/11/2001.
+ Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Thủ tướng Chính
phủ về triển khai thi hành Luật Đất đai.
+ Quyết định số 24/2004/QĐ-BTN&MT ngày 10/11/2004 của Bộ Tài
nguyên và môi trường ban hành quy định về GCNQSDĐ.
+ Quyết định số 25 /2004/QĐ - BTN&MT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên
và môi trường về việc thi hành kế hoạch triển khai thi hành Luật Đất đai 2003.
+ Thông tư số 29/2004/TT-BTN&MT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và
môi trường về việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính.
+ Thông tư số 28/2004/TT-BTN&MT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên
và môi trường về việc hướng dẫn thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng
bản đồ hiện trạng sử dụng đất.
1.3. Kết quả quản lý sử dụng đất của cả nước trong những năm qua
- Công tác ban hành các văn bản pháp luật và tổ chức thực hiện.
Trong những năm qua, các văn bản pháp luật của Nhà nước có liên quan
tới đất đai đã được ban hành và ngày càng được củng cố hoàn thiện cho phù hợp
với tình hình mới, để công tác quản lý và sử dụng đất đạt hiệu quả. Từ Luật đất
đai 1993, Luật sửa đổi 1998, 2001 và Luật hiện hành là luật 2003, cùng với đó là
một loạt các văn bản, Nghị định, Thông tư .đã tạo ra một hành lang pháp lý cho
công tác quản lý và sử dụng đất.
- Về công tác đo đạc bản đồ:
Đã tập trung hơn về chức năng quản lý Nhà nước, hội đồng chỉ đạo công
tác đo đạc bản đồ ở các địa phương. Toàn bộ hệ thống trắc địa quốc gia đã được
đo hoàn chỉnh được xử lý toán học, đã và đang được sử dụng trong phương án
toán học trong thời kì mới. (Hệ thống quy chiếu quốc gia VN 2000, hệ thống các
điểm toạ độ, độ cao của Nhà nước được hoàn thành và TTg CP ra quyết định
đưa vào sử dụng từ ngày 12/09/2000). Đến nay đã chụp được một khối lượng
11
lớn ảnh máy bay ở một số khu vực để sử dụng vào mục đích xây dựng các loại
bản đồ như bản đồ địa hình, bản đồ địa chính .
Hệ thống bản đồ địa hình tỷ lệ 1/50.000 phủ trùm cả nước bao gồm 900
mảnh có khoảng trên 80% số mảnh bản đồ của bộ bản đồ hiện trạng phủ trùm
được xuất bản, còn lại vẫn đang tiếp tục làm, hệ thống địa giới quốc gia đã được
hoàn thiện theo Chỉ thị 364, trên hệ thống bản đồ ở tỷ lệ lớn nhất có được tên ở
từng địa phương, tiến hành biên soạn hồ sơ cho các địa phương mới tách và
chính xác hoá toạ độ địa giới trong chương trình đo vẽ bản đồ địa chính.
- Về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:
Đây là một vấn đề khá khó khăn mà ngành Địa chính gặp phải. Do điều
kiện hồ sơ đăng ký đất đai chưa hoàn chỉnh. Mặc dù vậy Bộ Tài nguyên- Môi
trường đã chỉ đạo xây dựng xong và trình Chính Phủ quy hoạch sử dụng đất của
cả nước đến 2010 và định hướng đến 2020.
Đến nay thì việc xây dựng quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của từng địa
phương đã đi vào nề nếp.
- Công tác giao đất, cấp giấy chứng nhận và tổng kiểm kê đất đai:
Theo kết quả thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, đến cuối tháng 2/2007
kết quả cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong phạm vi cả nước như sau:
- Đất nông nghiệp: cấp được 13392895 giấy với diện tích 7413500 ha, đạt 81,3% ,
trong đó có 29 tỉnh đã hoàn thành cơ bản việc cấp giấy chứng nhận cho đất nông nghiệp.
- Đất lâm nghiệp: cấp được hơn 01 triệu giấy với diện tích hơn 7,7 triệu ha đạt 59,20%.
- Đất ở tại nông thôn: cả nước cấp được gần 10 triệu giấy với diện tích
trên 376000 ha đạt 75%, trong đó có 13 tỉnh cơ bản hoàn thành.
- Đất ở tại đô thị: cả nước cấp được khoảng 2,7 triệu giấy với diện tích
gần 60000 ha đạt 56,90%, trong đó có 07 tỉnh cơ bản hoàn thành
Như vậy việc cập giấy chứng nhận bị chậm chủ yếu là đất ở của hộ gia
đình và đất lâm nghiệp của tổ chức.
Công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất
12
Đến nay đã có 7987 dự án được giao đất, thuê đất với diện tích hơn
184179 ha, trong đó có 89654 ha đất được giao không thu tiền sử dụng đất, 8306
ha đất được giao có thu tiền; có 1781 dự án xin chuyển mục đích sử dụng đất
với tổng diện tích 1061 ha, trong đó có 9460 ha đã được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Thu hồi được 7289 ha do vi
phạm pháp luật về đất đai, trong đó có 7056 ha thu hồi do vi phạm quy định tại
Khoản 12 Điều 38 của Luật Đất đai 2003, đạt 65% diện tích phải thu hồi.
Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai: Giữa
các địa phương, có sự phối kết hợp chặt chẽ từ trung ương đến cơ sở, để giải
quyết các đơn thư khiếu tố. Thanh tra các cấp lãnh đạo ở địa phương đã mở ra
hướng mới là đẩy mạnh công tác hoà giải xử lý tranh chấp khiếu nại ngay tại cơ
sở. Cùng với sự phát triển chung của toàn ngành, các cơ quan tập thể ngày càng
được củng cố hoàn thiện về lực lượng và chuyên môn nghiệp vụ.
Theo số liệu báo cáo từ 64 tỉnh thành và 22 bộ ngành, tính đến ngày
15/09/2004, cơ quan hành chính tiếp nhận 120004 đơn khiếu nại, 15995 đơn tố
cáo, 28866 đơn kiến nghị phản ánh. Qua phân tích xử lý có 89896 đơn khiếu
nại, 8571 đơn tố cáo đủ điều kiện giải quyết, số còn lại là trùng lặp không rõ nội
dung và địa chỉ. Trong đó 98,20% đơn thư khiếu nại về đất đai, 1,8% đơn thư
khiếu nại về môi trường.
Để giải quyết thực trạng đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thành lập 06
đoàn công tác thanh tra. Bộ chủ trì thẩm tra xác minh giải quyết 196 đơn khiếu nại,
tố cáo của công dân tại 16 tỉnh thành. Ngoài ra, thanh tra Bộ đã ban hành 427 văn
bản và trình lãnh đạo Bộ ký, ban hành 861 văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì công tác quản lý, sử dụng đất đai
vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề, hạn chế .công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất đai, phân hạng đất chưa chưa được quan tâm đúng mức, các văn bản pháp
luật có liên quan tới đất đai còn chồng chéo, khó thực hiện, công tác cấp giấy
chứng nhận còn chậm trễ, các sai phạm trong vấn đề quản lý và sử dụng đất đai
không những giảm mà còn có chiều hướng gia tăng và chưa được xử lý kịp thời
nên gây hậu quả nghiêm trọng .
13
1.4. Kết quả công tác quản lý và sử dụng đất của tỉnh Hưng Yên thời gian qua
* Công tác ban hành các văn bản pháp luật và tổ chức thực hiện.
+ Chỉ thị số 05/CT-TV ngày 10/8/01 "V/v dồn thửa đổi ruộng đất nông
nghiệp", CT số 16/ CT-TV ngày 06/6/02 "V/v tiếp tục thực hiện dồn thửa đổi
ruộng đất nông nghiệp trong toàn tỉnh.
+ Quyết định số 34/2001/QĐ- UB ngày 18/9/2001 "V/v ban hành bản
quyết định về làm điểm dồn thửa đổi ruộng đất nông nghiệp".
+ Quyết định số 46/2002/QĐ - UB ngày 23/8/02 "V/v công bố quyền hạn
sử dụng đất đai tỉnh Hưng Yên thời kỳ 2001-2010" đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại QĐ số 438/QĐ-TTg.
+ Quyết định số 33/2002/QĐ-UB ngày 10/7/02 "V/v ban hành quyết định
thực hiện dồn thửa, đổi ruộng đất nông nghiệp trong toàn tỉnh.
Để nhanh chóng đưa Luật Đất đai 2003 vào cuộc sống tạo ra những chuyển
biến rõ rệt về quản lý và sử dụng đất đai, đưa công tác quản lý và sử dụng đất đai
trên địa bàn tỉnh vào nề nếp, hiệu quả UBND tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 15/2004 /
CT - UB ngày 30/6/2004 V/v triển khai thi hành Luật Đất đai 2003 và Kế hoạch
thực hiện số 36/ KH - UB ngày 02/7/2004. Ngày 13/7/04 UBND tỉnh đã tổ chức
hội nghị triển khai thi hành Luật Đất đai 2003 với lãnh đạo các sở, ngành, tổ chức
chính trị xã hội, đoàn thể tỉnh và chủ tịch UBND các huyện, thị xã trong tỉnh.
+ Ngày 20/6/05 đã ban hành QĐ số 47/2005/QĐ - UB “V/v ban hành
quyết định trình tự thủ tục giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
và thu hồi đất trên địa bàn tỉnh”.
+ Công văn số 254/CV-TNMT ngày 05/9/05 "V/v hệ thống trích dẫn điều Luật
Đất đai và Nghị định 181 của Chính Phủ về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất".
+ Công văn số 304/CV-TNMT (19/10/05) "V/v ban hành quy trình lập và
quyền hạn sử dụng đất".
Nhìn chung các văn bản pháp luật đưa ra rất kịp thời và phù hợp với điều kiện
thực tế cũng như phong tục tập quán của tỉnh Hưng Yên, áp dụng một cách sáng tạo
luật đất đai. Góp phần đưa công tác quản lý và sử dụng đất đai đi vào nề nếp.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét