Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Giải pháp hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp nhỏ

5
nghiệp là đơn vị kinh tế được thành lập và tổ chức sản xuất ra sản phẩm để kinh
doanh hoặc kinh doanh dịch vụ. Nói chung, doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh
không phân biệt quy mô doanh nghiệp hay là thuộc sở hữu thành phần kinh tế nào.
Các tiêu thức quy định như thế nào là doanh nghiệp lớn, DNNVV tuỳ thuộc
vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng nước, từng khu vực trong từng giai
đoạn, thời kỳ cụ thể. Nhưng tiêu thức thường được sử dụng nhất là quy mô kinh
doanh và phân doanh nghiệp thành doanh nghiệp lớn, DNNVV.
Tham khảo của một số nước như Singapore, Indonesia, Philipine, Thái Lan,
tiêu chí xác định DNNVV thường dựa vào các yếu tố : Vốn, lao động và doanh thu.
Tuy nhiên việc sử dụng một hoặc hai hoặc ba tiêu chí là tuỳ thuộc vào điều kiện kinh
tế, xã hội, trình độ phát triển và biện pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp của từng
nước cụ thể được thể hiện qua bảng số liệu sau
Bảng 1.1 : Quy mô và giá trị DNNVV tại một số nước :
Nước Số lao động
( người)
Tổng giá trị tài
sản
Doanh thu
Singapore <100 <499 triệu SGD
Indonesia <100 0,6 tỷ rupi < 2 tỷ Rupi
Philipine <2500 <100 triệu Peso
Thái Lan <100 <20 triệu bath
Nguồn: Hiệu quả sử dụng vốn trong DNNVV - NXB Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân
2006.
Các DNNVV có lợi thế là chi phí đầu tư không lớn, dễ thích nghi với sự biến động của
thị trường, chuyển ngàng nghề dễ dàng phù hợp nhu cầu của thị trường, phù hợp với trình độ
quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, doanh nghiệp đang gặp
không ít những khó khăn trình độ quản lý yếu kém, máy móc thiết bị cũ kỹ lạc hậu, trình độ
tay nghề không cao, thiếu vốn hoạt động. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp cần phải
cải thiện những mặt nhược điểm này. Doanh nghiệp phải có những tiêu chí để phân biệt
DNNVV với doanh nghiệp lớn. Nhà nước ta đã đưa ra tiêu chí phân loại doanh nghiệp
DNNVV được qui định tạm thời tại công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 của
Thủ Tướng Chính phủ là vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng
năm dưới 200 người, trong đó doanh nghiệp nhỏ có số vốn dưới 1 tỷ và số lao động
6
dưới 50 người. Để loại hình DNNVV phát triển phù hợp với tình hình theo cơ chế
thị trường, Chính phủ ban hành nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 định
nghĩa chính thức DNNVV ở nước ta là : DNNVV là cơ sở sản xuất kinh doanh độc
lập, đã đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
kinh doanh không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá
300 người. Theo định nghĩa này, các DNNVV bao gồm : các doanh nghiệp nhà nước
có qui mô nhỏ và vừa đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp nhà nước; các
công ty cổ phần TNHH, doanh nghiệp tư nhân có qui mô nhỏ và vừa đang ký theo
Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, doanh nghiệp theo hình thức hộ kinh doanh cá
thể được điều chỉnh bởi qui định của chính phủ. Ta thấy, tiêu chí để phân biệt doanh
nghiệp lớn với DNNVV thay đổi theo từng giai đoạn, từng thời kỳ để doanh nghiệp
được thuận lợi thích nghi với cơ chế thị trường mà có chính sách điều chỉnh cho phù
hợp. Trong thời gian tới, tiêu chí để xác định DNNVV sẽ thay đổi trong điều kiện
nền kinh tế mở cửa, để DNNVV có thể tồn tại và phát triển.
1.3.2 Phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa
Phân loại DNNVV phụ thuộc rất nhiều yếu tố, phù hợp với trình độ phát triển
kinh tế xã hội qua từng thời kỳ của mỗi nước. Nhìn chung, cách phân loại doanh
nghiệp ở mỗi nước có nhiều điểm khác nhau nhưng vẫn có một số điểm chung giống
nhau. Với mục đích nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện như huy động mọi tiềm
năng vào sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu phong phú, đa dạng của xã hội, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Phân loại theo các nước trên thế giới
a. Hàm Quốc
Việc phân loại quy mô DNNVV được thực hiện theo hai nhóm ngành:
- Ngành chế tạo, khai thác, xây dựng: Số lao động từ 20 đến 300 người và vốn
đầu tư dưới 600.000USD là doanh nghiệp vừa; doanh nghiệp dưới 20 lao động
thường xuyên là doanh nghiệp nhỏ.
7
- Ngành thương mại: DNNVV là doanh nghiệp có doanh thu dưới 250.000USD/
năm. Doanh nghiệp có từ 6 đến 20 người là doanh nghiệp vừa, còn doanh
nghiệp có lao động dưới 5 người được coi là doanh nghiệp nhỏ.
b. Nhật bản
Việc phân loại quy mô DNNVV được thực hiện theo hai nhóm ngành:
- Lĩnh vực sản xuất: Doanh nghiệp có vốn đầu tư là 1 triệu USD và dưới 300
lao động.
- Lĩnh vực thương mại và dịch vụ: doanh nghiệp có vốn đầu tư dưới
300.000USD(đối với doanh nghiệp bán buôn) hay 100.000USD(đối với doanh
nghiệp bán lẻ và dịch vụ), có dưới 100 lao động (đối với doanh nghiệp bán
buôn) hay 50 lao động(đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ).
c. Đài Loan
Việc phân loại quy mô DNNVV được thực hiện theo ba nhóm ngành:
- Trong khu vực thương mại, vận tải và dịch vụ khác: có tổng doanh thu dưới 40
triệu Đài tệ/năm, lao động dưới 50 người .
- Trong khu vực công nghiệp và xây dựng: có vốn góp dưới 40 triệu Đài tệ, lao
động thường xuyên dưới 300 người.
- Trong khu vực khai khoáng: có vốn góp dưới 40 triệu Đài tệ, lao động thường
xuyên dưới 500 người.
Trong 40 năm qua khái niệm về DNNVV 6 lần thay đổi tiêu thức ( số vốn góp từ
5 triệu Đài tệ lên đến 40 triệu Đài tệ).
Nhìn chung, DNNVV phân theo tiêu thức phổ biến là số lao động thường
xuyên, vốn đầu tư và doanh thu theo từng ngành nghề qua các thời kỳ khác nhau.
Phân loại theo quy định ở Việt Nam
Việt Nam là đất nước đang phát triển, trong quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Nên Nhà nước, Chính Phủ cần phải đưa ra tiêu thức phân loại các
doanh nghiệp trong nền kinh tế để phù hợp tạo thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động
và thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra, phù hợp
năng lực quản lý còn hạn chế, thị trường chưa thật sự phát triển. Ngoài ra, cần tính
8
đến các yếu tố khác tác động đến việc phân loại như: mục đích phân loại, tính chất
nghề, địa bàn.
Việt Nam phân loại DNNVV dựa vào 2 tiêu thức: lao động thường xuyên và vốn
đăng ký. Hai tiêu thức này được các doanh nghiệp đồng tình ủng hộ bởi vì tất cả các
doanh nghiệp đều có số liệu về hai tiêu thức này và có thể xác định tương đối chính
xác số liệu để báo cáo; ngoài ra có thể xác định hai tiêu thức này ở mọi cấp độ: toàn
bộ nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp. Như vậy, hai tiêu thức này hội đủ tính phổ biến,
tính khái quát, tính xác thực và tính chính xác cao.
1.3.3 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế thị trường hiện
nay
Hiện nay ở hầu hết các nước, DNNVV đóng vai trò quan trọng chi phối rất lớn
đến công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Ở nước ta hiện có trên 90% trong tổng số
doanh nghiệp là DNNVV với tất cả các loại hình kinh tế, bao gồm: doanh nghiệp Nhà
nước, Công ty cổ phần, Công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, cơ sở
sản xuất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,… Điều đó cho thấy DNNVV có
vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta, thể hiện:
- Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các DNNVV chiếm tỷ trọng lớn, thậm
chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp( ở Việt Nam chỉ xét các doanh nghiệp có
đăng ký thì tỷ lệ này là trên 95%). Vì thế, đóng góp của họ vào tổng sản lượng
và tạo việc làm là rất đáng kể. DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra
công ăn việc làm, góp phần ổn định xã hội : Vì được dể dàng tạo lập với một
lượng vốn không lớn, thường xuyên đáp ứng nhu cầu thay đổi của thị trường,
mặc dù số lượng lao động trong mỗi DNNVV không nhiều nhưng với số lượng
rất lớn DNNVV trong nền kinh tế nên đã tạo ra phần lớn công ăn việc làm cho
xã hội.
Ở Việt Nam, hiện cả nước có hơn 200.000 doanh nghiệp và theo dự kiến sẽ
thành lập thêm 320.000 doanh nghiệp mới để đưa tổng số lên khoảng 500.000
doanh nghiệp vào năm 2010. Trong số 320.000 doanh nghiệp mới sẽ thành lập,
số lao động thu hút trong các DNNVV có thể lên đến 2,7 triệu người.
9
- Làm cho nền kinh tế năng động: vì DNNVV có qui mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh,
thay đổi theo nhu cầu, thị hiếu của thị trường. DNNVV cung cấp một khối
lượng lớn sản phẩm đa dạng, phong phú và độc đáo về mặt hàng, chủng loại đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phát
triển: Với một số lượng đông đảo nhất trong nền kinh tế đã tạo ra sản lượng, thu
nhập đáng kể cho xã hội.
- Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: DNNVV chuyên
môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm
hoàn chỉnh. DNNVV hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp quy mô lớn, là cơ sở để
hình thành những doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn mạnh trong quá trình phát
triển kinh tế thị trường. Sự đều chỉnh hợp đồng phụ tại các thời điểm cho phép
nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNNVV là thanh giảm sốc cho nền kinh
tế.
Với đặc trưng nhỏ, lẻ và năng động, linh hoạt DNNVV đi vào những thị
trường ngõ, ngách hỗ trợ các doanh nghiệp lớn trong việc tiếp cận thị trường,
tiêu thu sản phẩm, cân đối khả năng cung cầu hợp lý trong xã hội. Mặt khác,
DNNVV cũng là những doanh nghiệp vệ tinh cung cấp các sản phẩm đầu vào,
gia công, sản xuất, kinh doanh trong chu kỳ hoạt động của các doanh nghiệp
lớn, điều này đã tăng khả năng hoạt động của các doanh nghiệp trên thị trường,
tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các loại hình kinh tế, các thành phần kinh tế.
- Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở
những trung tâm kinh tế đất nước. Với quy mô nhỏ và vừa, lại được phân bố
phân tán ở hầu khắp các địa phương, các vùng lãnh thổ nên DNNVV có khả
năng tận dụng các tiềm năng về lao động, nguyên vật liệu với trữ lượng hạn chế,
không đáp ứng nhu cầu sản xuất quy mô lớn, nhưng sẵn có ở địa phương, sử
dụng các sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các doanh nghiệp lớn.
DNNVV đóng góp quan trọng vào ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc
làm ở địa phương.
10
- DNNVV góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ :
Trong nền kinh tế luôn tồn tại với nhiều loại hình doanh nghiệp với nhiều
quy mô khác nhau. Thông thường các doanh nghiệp lớn tập trung ở vùng đô thị,
có cơ sở hạ tầng phát triển, nhưng lại không đáp ứng được tất cả yêu cầu của
nền kinh tế như lưu thông hàng hóa, dịch vụ, phát triển ngành nghề truyền
thống, tiểu thủ công nghiệp, giải quyết lao động, ổn định đời sống xã hội của
nhân dân…Với chiều hướng đó sẽ gây tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về
trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa các
vùng.
Sự phát triển của DNNVV góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự
cân đối trong phát triển giữa các vùng, miền. Nó giúp cho vùng sâu, vùng xa,
các vùng nông thôn có thể khai thác được tiềm năng của vùng, miền, của địa
phương để phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ, tạo ra sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ. Đây cũng là vấn đề rất có ý nghĩa để thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
- DNNVV góp phần tích cực trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư và sử
dụng vốn có hiệu quả các nguồn lực tại địa phương.
Thành lập DNNVV không cần quá nhiều vốn tạo cơ hội cho nhiều tầng lớp
dân cư có thể tham gia đầu tư. DNNVV có thể dễ dàng huy động vốn thông qua
quan hệ họ hàng, bạn bè, người thân. Do đó, DNNVV tạo hiệu quả trong việc huy
động, sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản
vốn đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế cao.
- DNNVV sản xuất nhiều mặt hàng để xuất khẩu đem nhiều ngoại tệ cho đất
nước đáp ứng nhu cầu thanh toán nhập khẩu và tăng nguồn thu cho ngân sách
Nhà nước.
Ngày nay, trong nền kinh tế toàn cầu hóa mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn
hóa, xã hội giữa các quốc gia ngày càng phát triển rộng rãi. DNNVV góp phần
quan trọng trong việc khai thác tiềm năng của các ngành nghề truyền thống ở các
11
địa phương như các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ, v.v.v. Bên cạnh đó, sự phát
triển các DNNVV sẽ làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, góp một phần
đáng kể cho ngân sách Nhà nước để thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội.
1.3.4 Ưu điểm và nhược điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế
thị trường hiện nay
+ Ưu điểm
DNNVV có những ưu điểm chủ yếu sau đây:
- DNNVV tự do cạnh tranh bình đẳng hơn so với các doanh nghiệp lớn:
DNNVV chiếm số lượng đông đảo, quy mô nhỏ. DNNVV ít phụ thuộc vào nhà
nước, doanh nghiệp luôn sẳn sàng bất chấp mọi rủi ro, mạnh dạn khai thác thị
trường.
- DNNVV làm cân bằng giữa các vùng, miền trong nước: Các doanh nghiệp
lớn thường tập trung ở các trung tâm kinh tế lớn, nên làm mất đi sự cân bằng
giữa các vùng, miền. Ngược lại, DNNVV tạo được cân đối này, có thể phát
triển rộng rãi ở mọi vùng lãnh thổ và tạo ra những sản phẩm phong phú, đa
dạng; cung cấp hàng hóa và dịch vụ đến từng địa phương xa xôi hẻo lánh.
- DNNVV khai thác được tiềm lực trong nước: Các doanh nghiệp lớn thường
tập trung ở các trung tâm kinh tế lớn, nên không khai thác được hết tiềm năng
của đất nước như: tài nguyên thiên nhiên, lao động, thời tiết v.v.v. Ngược lại,
DNNVV là linh động khai thác lợi thế điều kiện vùng, miền của đất nước về tài
nguyên, lao động, thời tiết v.v.v DNNVV có lợi thế trong việc tuyển dụng lao
động tại địa phương và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sản xuất sẵn có tại địa
phương, phát huy cho sản xuất kinh doanh.
- DNNVV sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu để thực hiện quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước ở giai đoạn đầu, có thể sản xuất một số mặt
hàng thay thế nhập khẩu, phù hợp với sức mua của dân chúng góp phần ổn định
đời sống xã hội, tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
- DNNVV năng động, nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường:
12
Quy mô nhỏ và vừa, bộ máy quản lý gọn nhẹ, đơn giản; DNNVV phản ứng
nhanh nhạy với sự biến động của thị trường và dễ thực hiện sự phân công lao
động của thị trường, DNNVV có cơ sở vật chất kỹ thuật, quy mô không lớn nên
đổi mới linh hoạt hơn, dễ dàng chuyển đổi sản xuất hoặc thu hẹp quy mô để tồn
tại trong nền kinh tế thị trường.
- DNNVV dễ dàng tạo lập, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp:
DNNVV quy mô nhỏ và vừa, bộ máy quản lý gọn nhẹ, đơn giản, không cần
nhiều vốn dễ dàng tạo lập.
+ Nhược điểm
- Hạn chế về khả năng tài chính: Tình trạng thiếu vốn hoặc không có vốn để
mở rộng sản xuất kinh doanh là hiện tượng khá phổ biến của các DNNVV hiện
nay. Với năng lực hạn chế, DNNVV Việt Nam khó có khả năng đầu tư quy
trình công nghệ hiện đại để tạo ra các sản phẩm cao, cạnh tranh với các sản
phảm ngoại có tiêu chuẩn quốc tế.
Các ngân hàng cũng e ngại khi cho DNNVV vay vốn vì khả năng gặp rủi
ro lớn khi cho vay. DNNVV cũng rất khó khăn và ít có khả năng huy động được
vốn trên thị trường vì quy mô không lớn. DNNVV luôn ở trong tình trạng thiếu
vốn, khiến cho khả năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp không cao.
- Khả năng tiếp cận thị trường kém. Các sản phẩm và dịch vụ do các doanh
nghiệp này cung cấp hiện nay tuy đã có nhiều tiến bộ về chất lượng, nhưng mới
chỉ đáp ứng một phần nhu cầu của người tiêu dùng. Lại thêm quy mô nhỏ bé,
năng lực sản xuất chưa cao, hạn chế về vốn, thiếu khả năng xây dựng và triển
khai kế hoạch tiếp thị sản phẩm, các DNNVV gặp nhiều khó khăn để cạnh tranh
trong môi trường toàn cầu hóa nhanh chóng như hiện nay, đặc biệt với sân chơi
lớn như WTO.
- Khả năng tiếp thị ra thị trường nước ngoài của DNNVV còn nhiều hạn chế, do
khối lượng sản phẩm của các DNNVV sản xuất ra còn manh mún, chất lượng
thấp, khó đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu, chủ yếu là để phục vụ tiêu dùng trong
nước, thậm chí trong một địa phương hẹp.
13
- Việc mua nguyên liệu, máy móc, thiết bị: DNNVV có quy mô kinh doanh
không lớn, khả năng tài chính hạn hẹp nên thường không được hưởng khoản
chiết khấu giảm giá do mua số lượng ít và trang bị máy móc hiện đại như các
doanh nghiệp lớn, không nhập khẩu trực tiếp mà thường phải qua đại lý trong
nước nên nên chi phí đầu vào cao.
- Thiếu thông tin, trình độ quản lý doanh nghiệp chưa cao: Trong thế giới toàn
cầu hóa như hiện nay, thông tin cũng là một đầu vào rất quan trọng của hoạt
động sản xuất kinh doanh. DNNVV thường khó khăn trong việc tiếp cận thông
tin thị trường, tiếp cận công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý tiên tiến trong
nước cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều đó dẫn đến trình
độ quản lý điều hành trong các DNNVV còn thấp kém.
- Khả năng thu hút được các nhà quản lý và lao động giỏi còn thấp: Vì DNNVV
rủi ro kinh doanh cao, ít có chính sách đãi ngộ nhân tài cao, lương bổng không
cao, thường thay đổi hoạt động kinh doanh, nên công việc thường không ổn
định. Do đó, khó có khả năng thu hút được những người lao động có trình độ
cao trong sản xuất kinh doanh và trong quản lý, điều hành.
- Tính liên kết hợp tác kinh doanh của các DNNVV còn kém nên chưa huy động
được nguồn vốn dồi dào, cơ sở hạ tầng vững chắc để thu hút đầu tư, nâng cao
chất lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh.
- DNNVV còn có thể gây ra một số tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống kinh tế -
xã hội như: trốn, lậu thuế, gây ô nhiễm môi trường, kinh doanh các mặt hàng
cấm, kinh doanh sai mục đích v.v.v. DNNVV do chạy theo lợi nhuận quá mức
đã tìm mọi cách để kiếm lời gây tổn thất nghiêm trọng cho xã hội.
1.4 TÍN DỤNG, TÍN DỤNG NGÂN HÀNG, VAI TRÒ TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG.
1.4.1 Khái niệm về tín dụng
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hóa, phản ánh mối quan hệ kinh tế
giữa các chủ thể sở hữu nguồn vốn nhàn rỗi với các chủ thể sử dụng vốn trong nền
kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc và lợi tức. Và tín dụng cũng là một
14
trong những quan hệ xã hội hình thành từ rất sớm gắn liền với sự ra đời và phát triển
của sản xuất hàng hóa. Cơ sở hình thành và ra đời của tín dụng, trước hết, xuất phát
từ nhu cầu bù đắp thiếu hụt tiền trong sản xuất kinh doanh hoặc trong cuộc sống, kế
đến là sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá.
Quan hệ tín dụng đầu tiên tồn tại chủ yếu bằng hiện vật và dưới hình thức cho
vay nặng lãi trên cơ sở của nền sản xuất hàng hóa kém phát triển. Trong các thời kỳ
Chiếm hữu nô lệ và chế độ Phong kiến, quan hệ tín dụng phát triển chậm trên cơ sở
những nền sản xuất hàng hóa nhỏ, đến giai đoạn phương thức sản xuất Tư bản chủ
nghĩa ra đời với nền sản xuất hàng hóa lớn, nền sản xuất Đại công nghiệp thì quan hệ
tín dụng mới thật sự phát triển mạnh mẽ; tín dụng bằng hiện vật nhường chỗ cho tín
dụng hiện kim, cho vay nặng lãi nhường chỗ cho các hình thức tín dụng tiến bộ hơn
như: tín dụng ngân hàng, tín dụng chính phủ…
Dù tồn tại dưới hình thức nào, trong bối cảnh hình thái kinh tế xã hội nào và đối
tượng là hiện vật hay hiện kim thì quan hệ tín dụng cũng đều thể hiện ba đặc điểm cơ
bản sau:
- Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người
khác
- Sự chuyển giao này mang tính tạm thời
- Khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm theo
một lượng giá trị dôi thêm gọi là lợi tức.
Tín dụng phải được hiểu đầy đủ 3 mặt trên thì mới đúng là phạm trù tín dụng.
1.2.2 Tín dụng ngân hàng
Trong các hình thức tín dụng, TDNH là hình thức tín dụng ra đời và phát triển
cùng với hệ thống ngân hàng, có tính chuyên nghiệp và hoạt động trong nền kinh tế
hết sức đa dạng và phong phú:
a.Về đặc điểm của tín dụng ngân hàng
- Đối tượng của TDNH là vốn tiền tệ, trong đó ngân hàng huy động vốn bằng tiền
và cấp tín dụng cũng bằng tiền.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét