Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở quảng bình hiện nay

Khóa luận tốt nghiệp
Nghiên cứu đề tài này, tôi chỉ muốn góp một phần nhỏ vào việc phân
tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
đồng thời làm rõ tình hình phát triển kinh tế ở Quảng Bình hiện nay.
Vì vậy, hơn lúc nào hết việc nắm vững và bảo vệ tính cách mạng, tính
khoa học của học thuyết hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa Mác là một
nhiệm vụ chính trị và đồng thời là đòi hỏi của thực tiễn ngày nay.
Hơn nữa, với một sinh viên ngành triết học được trang bị cho mình
một lượng kiến thức chuyên ngành Mác - Lênin, đó là hệ tư tưởng tiến bộ,
khoa học nhất thì việc lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin trong đó có học
thuyết hình thái kinh tế xã hội là điều rất cần thiết để tôi hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp với tên đề tài: “Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Quảng Bình hiện nay”.
Giới hạn là một khóa luận tốt nghiệp của sinh viên, bản thân tôi chỉ tập
trung giải quyết các vấn đề trong khóa luận từ năm 2000 - 2010, nhằm làm
rõ sự vận dụng biện chứng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất ở Quảng Bình.
Xuất phát từ những lý do nêu trên mà tôi đã cố gắng tìm tòi, suy nghĩ
thấu đáo và mạnh dạn lựa chọn vấn đề nêu trên để làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề học thuyết hình thái kinh tế xã hội nói chung và quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng
là vấn đề hết sức quan trọng đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc
biệt là đối với vấn đề phát triển kinh tế. Góp phần làm nền tảng lý luận,
định hướng phát triển kinh tế, đưa ra những con đường, những giải pháp
phù hợp cho việc hoàn thiện nền kinh tế theo hướng công nghiệp, hóa hiện
đại hóa đất nước.
Vì vậy mà đã có rất nhiều nhà nghiên cứu Mác xít quan tâm, tìm hiểu,
đưa ra những lý luận duy vật về hình thái kinh tế xã hội đặc biệt là về quy
SVTH: Nguyễn Thị Hiền
5
Khóa luận tốt nghiệp
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Họ đã có những công trình nghiên cứu được đông đảo mọi người
quan tâm, chúng ta không thể kể hết những công trình đó mà chỉ có thể nêu
một số nghiên cứu gần đây mà chúng ta thường nhắc đến:
Với tác phẩm: “ Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội và lý
luận về con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta” Nxb Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội, 2005. Chủ biên: Tiến sĩ Phạm Văn Chung đã tập trung
xem xét nội dung khoa học của học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội
và mối liên hệ hữu cơ của nó đối với lý luận về con đường phát triển chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Từ việc nghiên cứu học thuyết Mác về hình thái
kinh tế - xã hội, cuốn sách xác định hai phương diện là lý luận và phương
pháp luận của học thuyết và chỉ ra một cách cụ thể vai trò phương pháp
luận của học thuyết này đối với việc xác định nội dung khoa học của lý
luận về con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thông qua luận giải một số
vấn đề lý luận cấp bách.
Trong tác phẩm: “Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ
nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam”, của Lương Xuân
Quỳ, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội. Đề cập đến hệ quan điểm,
phương hướng, chính sách và giải pháp xây dựng quan hệ sản xuất định hướng
xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội trên đất nước ta.
Trong cuốn: “ Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở Việt
Nam” của tác giả Phạm Thị Quý, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000.
Tác phẩm nêu những vấn đề về quan hệ sản xuất, quá trình xác lập quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới ( từ năm 1986 đến
nay), định hướng và giải pháp cơ bản tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quan hệ
sản xuất ở Việt Nam.
Đặc biệt trong số những công trình nghiên cứu đó có tác phẩm: “Tìm
hiểu tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về quy luật phù hợp của quan hệ
sản xuất với lực lượng sản xuất”, Trương Hữu Hoàn, Triết học, số 3 (1994).
SVTH: Nguyễn Thị Hiền
6
Khóa luận tốt nghiệp
Nội dung tác phẩm đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng của học thuyết hình
thái kinh tế xã hội, đặc biệt là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất để thấy rõ sự tác động qua lại giữa chúng là một
quá trình có quy luật của nó. Vạch rõ những tư tưởng của Mác và Ph.
Ăngghen về quan hệ sản xuất,lực lượng sản xuất để ta thấy rõ được những
đối tượng đó có đặc điểm và mối liên hệ với nhau như thế nào. Bên cạnh đó
còn làm rõ lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất ở mỗi thời đại khác nhau
như thế nào.
Đó mới chỉ là một số nghiên cứu gần đây của các tác giả mà chúng ta
được đọc và tham khảo. Ngoài ra còn rất nhiều công trình khác của các cấp,
các ngành, cán bộ và sinh viên thuộc khoa lý luận chính trị cần được chúng
đặc biệt quan tâm. Với đề tài khóa luận của tôi mặc dù không phải là đề tài
mới mẻ nhưng đang là vấn đề rất được quan tâm nên tôi xin được góp một
phần nhỏ vào việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đặc biệt
là đối với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về học thuyết hình thái
kinh tế xã hội đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Nêu ra được những đặc điểm cũng như
thực trạng và giải pháp của tỉnh Quảng Bình trong sự vận dụng quy luật đó.
3.2. Nhiệm vụ
Để hoàn thành mục đích trên sinh viên thực hiện đề tài này có nhiệm vụ:
* Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, làm rõ tác động qua lại giữa chúng.
* Nêu ra những nội dung cơ bản của học thuyết hình thái kinh tế xã hội
và những quy luật trong đó. Qua đây thấy được ý nghĩa của việc vận dụng học
SVTH: Nguyễn Thị Hiền
7
Khóa luận tốt nghiệp
thuyết hình thái kinh tế xã hội nói chung, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất nói riêng vào phát triển kinh tế Quảng Bình.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài này được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin về học thuyết hình thái kinh tế xã hội, đồng thời dựa trên nền tảng tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con
đường phát triển đi lên CNXH.
4.2. Phương pháp
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn vận dụng các phương
pháp cụ thể như: Phân tích - tổng hợp, lôgic - lịch sử, liệt kê, so sánh và các
phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội khác.
5. Đóng góp của đề tài
Trong phạm vi là một bài khóa luận tốt nghiệp, người thực hiện đề tài
chỉ mong muốn làm rõ tính đúng đắn, khoa học trong quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Bên cạnh đó, đề tài có thể là một trong những nguồn tài liệu cần thiết
cung cấp một số vấn đề liên quan: Thành phần kinh tế, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và những chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc phát
triển kinh tế tại địa phương.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời cảm ơn, phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục thì khóa luận còn có phần nội dung gồm 2 chương và 5 tiết.
SVTH: Nguyễn Thị Hiền
8
Khóa luận tốt nghiệp
NỘI DUNG
Chương 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
1.2. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1.1.1. Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong hai phát minh vĩ đại nhất của C.
Mác. Là một bộ phận hợp thành của triết học Mác - Lênin, nó là lý luận
duy vật về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của xã hội, đồng
thời là phương pháp luận khoa học để nghiên cứu mọi hiện tượng xã hội và
quá trình lịch sử. Không những thế chủ nghĩa duy vật lịch sử còn là kim chỉ
nam cho các khoa học xã hội cụ thể và cho việc định ra chiến lược, sách
lược của Đảng cộng sản.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử bàn đến nhiều vấn đề nhưng được chú ý
nhất đó là học thuyết hình thái kinh tế xã hội. Việc tìm hiểu quá trình hình
thành và phát triển lý luận Mác về hình thái kinh tế xã hội cho thấy hình
thái kinh tế xã hội là một hệ thống những yếu tố, những mối liên hệ xã hội
rất phức tạp. Tuy nhiên, đây không phải là những yếu tố, những mối liên hệ
bất kì mà là những yếu tố được hình thành một cách tất yếu, lặp đi lặp lại
trong những xã hội cụ thể. Ở đây, chúng ta sẽ bàn đến mối quan hệ biện
chững giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để thấy được sự tác
động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố và sự vận động, phát triển một cách
tự nhiên.
Đầu tiên là khái niệm lực lượng sản xuất: Theo định nghĩa trong sách
giáo trình Triết học Mác - Lênin đã viết: ”Lực lượng sản xuất là năng lực
thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời
sống của mình”.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất,
trong đó “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân,
SVTH: Nguyễn Thị Hiền
9
Khóa luận tốt nghiệp
là người lao động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động
sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao
động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để
sản xuất ra của cải vật chất.
Xã hội tồn tại và phát triển được là nhờ có sản xuất vật chất và lịch sử
loài người là lịch sử của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Mỗi chế độ
xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất khác nhau.Vì vậy
mà phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản
xuất trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất là sự
thống nhất biện chứng hai mối quan hệ của con người, thứ nhất là quan hệ
giữa con người với tự nhiên, thứ hai là quan hệ giữa người với người. Hai
mối quan hệ trên thống nhất biện chứng trong một quá trình sản xuất được
gọi là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Nhưng lúc đầu Mác chưa dùng thuật ngữ “lực lượng sản xuất” mà gọi
là “sức sản xuất”. Ông cho rằng: “sức sản xuất” không phải là cái “bản chất
tinh thần” nào đó mà đó là sức mạnh vật chất. Mác viết “Để xua tan vầng
hào quang thần bí có tác dụng cải biến “sức sản xuất” chỉ cần mở ra bản
quan thống kê đầu tiên là đủ. Ở nơi đó nói về sức người, sức hơi nước, sức
ngựa. Tất cả những thứ ấy đều là “lực lượng sản xuất” [13,38]. Khi phân
tích các yếu tố của lực lượng sản xuất Mác chia chúng thành hai loại đó là
sức sản xuất tự nhiên và sức sản xuất của bản thân con người. Theo Mác
con người với tư cách là một lực lượng sản xuất không chỉ sáng tạo ra của
cải vật chất mà chủ yếu hơn lực lượng sản xuất xã hội đó cùng với sức sản
xuất tự nhiên trở thành một lực lượng cách mạng thúc đẩy sự phát triển của
xã hội.
Lao động sản xuất là hoạt động cơ bản nhất quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Con người bắt đầu làm ra lịch sử của mình
bằng hoạt động sản xuất. Ban đầu loài người chỉ biết hái lượm những cái có
trước mắt để ăn, không biết tích lũy cũng không biết sáng tạo, tìm tòi ra
SVTH: Nguyễn Thị Hiền
10
Khóa luận tốt nghiệp
những cái mới để sử dụng. Đến khi con người đã phát triển hơn thì đã biết
dựa vào giới tự nhiên, trao đổi chất với giới tự nhiên và duy trì mối quan hệ
khăng khít với giới tự nhiên. Con người biết điều tiết thức ăn cho mình để
sử dụng được nhiều thời gian hơn, lâu hơn. Bên cạnh đó, con người còn biết
tự chế tạo, sản xuất ra những thứ phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của
mình từ giới tự nhiên đó. C.Mác đã viết: “ Lao động trước hết là một quá trình
diễn ra giữa con người với giới tự nhiên, một quá trình mà trong đó con
người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với giới tự
nhiên” [15,260].
Trên cơ sở hoạt động thực tiễn con người ngày càng đi sâu khám phá
giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên. Ban đầu chỉ là những công cụ hết sức
thô sơ, dần con người biết chế tạo ra những công cụ tốt hơn phù hợp với
nhu cầu cải biến giới tự nhiên của mình. Ở thời đại sống thành bầy đàn,
hoạt động sống của con người (cũng tức là hoạt động thỏa mãn nhu cầu) có
thực chất là quá trình nạp nhu cầu vào đối tượng. Trong chiều hướng đó
của hoạt động sống, con người phải thay đổi nhu cầu của mình sao cho phù
hợp với đối tượng, có như thế nhu cầu của họ mới được thỏa mãn. Nhưng
việc thõa mãn nhu cầu và sự tăng thêm càng nhiều cá thể trong bầy, đã làm
cho lượng cầu của con người gia tăng nhanh chóng. Trong tương quan với
sự gia tăng như thế về lượng cầu, thì lĩnh vực giới tự nhiên làm thành môi
trường sống của con người trở nên nghèo đi cùng với tốc độ tương ứng, và
đến mức độ nhất định thì giới tự nhiên với những sản vật sẵn có của nó sẽ
không còn đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của họ. Lúc này, hoạt
động sống của con người vẫn cứ tiếp diễn theo những quá trình, song có
chiều hướng ngược lại, nạp đối tượng vào nhu cầu. Trong chiều hướng này
của hoạt động sống, nhu cầu của con người chỉ được thõa mãn, khi đối
tượng thay đổi sao cho phù hợp với nhu cầu và để đối tượng trở nên phù
hợp với nhu cầu của mình thì con người chỉ còn một cách duy nhất là tích
cực tác động vào nó từ lao động. Bằng lao động và thông qua lao động, con
SVTH: Nguyễn Thị Hiền
11
Khóa luận tốt nghiệp
người sản xuất ra đời sống vật chất - một đời sống do chính con người tạo
ra cho mình, khác về chất so với đời sống chỉ biết lợi dụng những gì có sẵn
trong tự nhiên của họ ở thời đại bầy đàn.
Qua đây ta có thể hiểu lực lượng sản xuất biểu hiện quan hệ giữa
người và giới tự nhiên. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của loài người. Đó là kết quả của năng lực thực tiễn
của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra cả cải vật chất
bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của loài người. Mác viết: “Lực lượng
sản xuất là cơ sở của toàn bộ lịch sử con người bởi vì mọi lực lượng sản
xuất đều là lực lượng được tạo ra, đều là sản phẩm của hoạt động trước đó.
Như thế, lực lượng sản xuất là kết quả của nghị lực thực tiễn của con
người, nhưng bản thân nghị lực ấy lại được chế định bởi những điều kiện
mà con người đặt vào, bởi một hình thức mà xã hội ấy lại được tạo ra
không phải những con người ấy mà bởi những thế hệ trước đó” [13,997].
Mỗi thế hệ đều sinh ra một lực lượng sản xuất và thế hệ sau phát triển hơn,
tiến bộ hơn bởi nhờ có sự kế thừa phát huy những thành tựu của thế hệ
trước, loại bỏ những hạn chế mà thế hệ trước đã vấp phải. “Mỗi thế hệ sau
có được những lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra, và những lực
lượng sản xuất ấy là nguyên liệu cho thế hệ sau thực hiện một hoạt động
sản xuất mới, nhờ hiện tượng đó mà hình thành nên mối liên hệ trong lịch
sử loài người, hình thành lịch sử loài người, các lực lượng sản xuất của con
người và do đó quan hệ xã hội của con người phát triển nhiều hơn, lịch sử
đó càng trở thành lịch sử loài người” [13,997-998].
Vì vậy, một lần nữa ta lại khẳng định: Lực lượng sản xuất là năng lực
thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người, nhằm đáp ứng nhu cầu đời
sống của mình. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu
sản xuất trong đó: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động” [6,430].
SVTH: Nguyễn Thị Hiền
12
Khóa luận tốt nghiệp
Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra trước hết là công cụ lao động. Người
lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, sử dụng tư
liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao
động và tư liệu lao động. Trong tư liệu lao động còn có công cụ lao động và
những tư liệu lao động khác cần thiết cho việc vận chuyển, bảo quản sản phẩm.
Lực lượng sản xuất biểu hiện quan hệ của con người đối với giới tự
nhiên, nhưng toàn bộ giới tự nhiên không thể là một bộ phận cấu thành của
lực lượng sản xuất mà chỉ có một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào
sản xuất, được con người sử dụng mới là đối tượng lao động trực tiếp. Con
người không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động có sẵn,
mà còn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất có liên quan tới việc đưa những đối tượng lao động ngày
càng mới hơn vào quá trình sản xuất. Điều đó hoàn toàn có tính quy luật,
bởi chính những vật liệu mới mở rộng khả năng sản xuất của con người.
Con người là yếu tố năng động nhất, quyết định lực lượng sản xuất. Bởi vì
chỉ có yếu tố con người mới có trí tuệ và cũng chỉ có con người mới có
năng lực tự phát triển và tự hoàn thiện bản thân mình. Người lao động
không chỉ sinh con, tái sản xuất ra sức lao động, mà còn luôn nâng cao chất lượng
của lao động bằng con đường kế thừa các yếu tố xã hội và phát triển chúng.
Ngày nay, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại
đòi hỏi con người phải phát triển cao hơn về trí tuệ , khỏe mạnh về thể chất,
giàu có về tinh thần, trong sáng về đạo đức. Trong đó, trí tuệ không phải là
những tri thức trừu tượng mà trước hết phải có năng lực chuyên môn được
đào tạo. Thể chất không chỉ đơn giản là cường tráng về thể lực mà còn bao
hàm trong đó cả sự phát triển tốt về trí lực, hơn nữa cùng với việc phát triển
sức lao động và tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhân tố trí lực chiếm tỷ lệ ngày
càng cao, vai trò của người lao động trí óc ngày càng lớn và rõ rệt. Vì vậy
mà có thể nói rằng, con người là chủ thể quyết định mọi quá trình vận động
và phát triển lịch sử.
SVTH: Nguyễn Thị Hiền
13
Khóa luận tốt nghiệp
Còn tư liệu lao động là vật hay là phức hợp vật thể mà con người đặt
giữa mình với đối tượng lao động, chúng dẫn truyền tích cực sự tác động
của con người vào đối tượng lao động. Đối tượng lao động và tư liệu lao
động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động sản xuất hợp thành tư
liệu sản xuất. Vì thế mà trong tác phẩm: “Hệ tư tưởng Đức” ta bắt gặp
những dòng: “Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn
giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu
bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con
người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế là
con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”
[7,29].Trong tư liệu lao động, Mác tách những cái trực tiếp dẫn truyền tác
động của con người vào giới tự nhiên đó là công cụ lao động. Công cụ lao
động là hệ thống xương cốt và bắp thịt của sản xuất và là chỉ tiêu quan
trọng nhất trong quan hệ của xã hội với giới tự nhiên đạt được do lao động
sản xuất và trong sản xuất thì công cụ lao động luôn luôn được cải tiến.
Cùng với sự cải tiến và hoàn thiện công cụ lao động thì kinh nghiệm sản
xuất của loài người cũng được phát triển và phong phú thêm, những ngành
sản xuất mới xuất hiện, từ đây sự phân công lao động phát triển. Chính sự
cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi tư liệu sản
xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà chủ yếu là công cụ lao
động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, là cơ sở xác
định trình độ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác
nhau giữa các thời đại kinh tế. Mác viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau
không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng
cách nào, với những tư liệu lao động nào” [18,233].
Một thế hệ sẽ có những tư liệu nhất định và thế hệ trước là điểm xuất
phát cho tư liệu lao động của thế hệ sau. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực
SVTH: Nguyễn Thị Hiền
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét