5
Xoan chịu hạn được di thực vào Châu Phi từ những năm đầu của thế kỷ 20.
Ngày nay, nó được trồng rộng rãi ở ít nhất 30 quốc gia, đặc biệt ở vùng dọc theo khu
vực vành đai phía nam sa mạc Sahara. Trong thế kỷ 20, xoan chịu hạn cũng đã được di
thực đến Fiji, Mauritius và nhiều quốc gia thuộc Trung, Nam Mỹ [33; 36].
Xoan chịu hạn được di thực vào Việt Nam năm 1981 do GS. Lâm Công Định,
một nhà lâm học Việt Nam. Nhân dịp tham dự hội thảo quốc tế lâm nghiệp về “Vai trò
của rừng trong sự phát triển của cộng đồng nông thôn” tại Senegal, Châu Phi, ông đã
đem hạt giống xoan chịu hạn về trồng tại vùng đất Phan Thiết, sau đó cho nhân rộng ra
và trồng tại Ninh Thuận, Bình Thuận. Ông cũng là người đặt tên cho loài cây này là
cây xoan chịu hạn (Azadirachta indica A.Juss) để phân biệt với xoan địa phương
(Melia azedarach) được trồng phổ biến ở nước ta [5].
2.1.4 Điều kiện thích nghi và tăng trƣởng [18]
Xoan chịu hạn là loài thực vật có phổ thích nghi rộng và chịu được điều kiện
khắc nghiệt tốt hơn nhiều loài cây khác. Cây vẫn có thể phát triển mạnh trên những
vùng đất khô hạn, nghèo chất dinh dưỡng, đất có độ mặn trung bình hoặc kiềm nặng.
Cây cũng có thể sống sót trên đất có pH thấp, do trong lá xoan chịu hạn có hàm lượng
chất khoáng khá cao, có tác dụng giảm độ acid trong đất.
Cây xoan chịu hạn thích nghi tốt ở những vùng nhiệt đới khô nóng với nhiệt độ
có thể cao hơn 45
0
C và lượng mưa trung bình khoảng 400 – 1500 mm/ năm. Mức độ
tăng trưởng của cây cũng tùy thuộc vào chất lượng đất, cây thường phát triển nhanh
trong 5 năm đầu, có thể đạt chiều cao 4 m sau 5 năm và 10 m sau 25 năm trồng.
2.1.5 Nhân giống [33; 36]
Xoan chịu hạn dễ được nhân giống bằng cả sinh sản hữu tính lẫn vô tính. Cây
có thể được trồng từ hạt, từ cây giống con, cây non, từ chồi rễ mút hoặc nuôi cấy mô.
Tuy nhiên, hiện nay cây thường được trồng từ hạt. Do tỷ lệ nảy mầm của hạt rất biến
động (15% đối với hạt dự trử và 85% đối với hạt tươi), nên nhiều chuyên gia khuyến
cáo gieo hạt sớm trong vườn ươm. Hạt cần ngâm trong nước lạnh 24 giờ và cắt đầu vỏ
hạt để tăng khả năng nảy mầm. Gieo hạt trên những luống cát mịn ở độ sâu 2,5 cm và
cách nhau 2 – 5 cm. Hạt thường nảy mầm từ 1 – 2 tuần.
Nhiều tác giả cho rằng hạt không tồn tại được lâu, chỉ sau 2 – 6 tháng bảo quản
hạt sẽ không thể nảy nầm được. Tuy nhiên, một số nghiên cứu gần đây ở Pháp cho
6
thấy, hạt được bảo quản mà không bị hư vỏ quả trong (nội quả bì) có khả năng nảy
mầm đến 45% sau 5 năm bảo quản.
2.1.6 Công dụng [18; 33; 36; 50]
Xoan chịu hạn có rất nhiều công dụng trong nông nghiệp và công nghiệp. Tại
nhiều nước trên thế giới, cây xoan chịu hạn không những mang lại hiệu quả đáng kể về
kinh tế với nhiều sản phẩm đa dạng mà nó còn giải quyết được một số vấn đề về môi
sinh. Tại Ấn Độ, cây xoan chịu hạn từ lâu đã được xem là một tài sản qúi giá do tính
đa dụng và khả năng thích nghi rộng của nó. Đây là một trong số ít những loài thực vật
mà tất cả các bộ phận của nó đều mang lại những lợi ích thiết thực cho con người.
Lá: xoan chịu hạn là loại cây có tán lá rộng, xum xuê, lá có lượng đạm,
khoáng, caroten tương đối cao nên có thể được sử dụng làm thức ăn cho gia súc.Tại
một số vùng Andhra Pradesh, nông dân thường cho gia súc ăn lá xoan chịu hạn sau khi
sinh con để gia tăng sự tiết sữa, ngoài ra, lá còn có tác dụng phòng trị bệnh giun sán
cho gian súc và kiểm soát nhiều loại tác nhân gây bệnh khác. Nhiều nơi còn dùng lá
non làm rau ăn vừa bổ sung khoáng chất, vừa có thể phòng ngừa giun sán hoặc viêm
nhiễm đường ruột. Ở Ấn Độ, dân gian thường lấy lá xoan chịu hạn để gần trẻ em giúp
ngăn ngừa bệnh ho gà. Lá xoan chịu hạn cũng được sử dụng trong bảo quản nông sản
với liều lượng 2 – 5 kg lá xoan chịu hạn/100 kg nông sản (Srivastav và cộng sự, 1998).
Thân: thân cây xoan chịu hạn thường được dùng làm gỗ, rất được ưa
chuận trong xây dựng hoặc trang trí nội thất do có đặc tính kháng mối mọt, màu sắc
đẹp và dễ gia công. Ngoài ra, do có tán lá rộng và luôn xanh tốt nên cây xoan chịu hạn
còn được xem là một loại cây che mát có giá trị, góp phần phục hồi và ngăn ngừa tình
trạng sa mạc hóa đất đai. Quần thể xoan chịu hạn lớn có thể tạo một bầu không khí
trong lành bởi tán cây rộng và hiệu suất quang hợp cao. Do vậy, rừng xoan chịu hạn có
thể làm dịu đi một số vấn đề về môi trường, đặc biệt là sự ấm lên của trái đất. Tuy
nhiên, ở nhiều nước tiềm năng của nó chưa được sử dụng một cách triệt để.
Rễ: dịch chiết từ rễ cây xoan chịu hạn được dùng làm thuốc cổ truyền trị
bệnh ngoài da, suy nhược cơ thể do có chứa nhiều đường, nhựa, protein, tryptophan.
Bộ rễ phát triển khỏe, giúp hạn chế xói mòn đất và góp phần cùng với lá rụng phục hồi
dinh dưỡng cho tầng đất canh tác.
Vỏ cây: chất nhựa trong, có màu hổ phách trích từ vỏ cây xoan chịu hạn
có thể dùng làm thuốc bổ hoặc thuốc trị bệnh vàng da khi phối hợp với một số thảo
7
dược khác. Dịch chiết từ vỏ cây có thể chữa đau răng, bệng sốt rét, bệnh da liễu hoặc
dùng để nhuộm lụa. Do vỏ và rễ cây đều có chứa nimbin và nimbidin nên dịch chiết từ
hai bộ phận này cũng có hoạt tính kháng nấm, kháng dị ứng hoặc trị bệnh ngoài da.
Quả: thịt quả giàu carbohydrat, khi chín có vị ngọt, có thể ăn được hoặc
sử dụng trong công nghệ lên men. Thịt quả cũng là cơ chất triển vọng để tạo khí
methane. Thịt quả cũng được dùng làm thuốc tẩy giun, thuốc giảm đau, thuốc bổ. Quả
khô ngâm nước có thể trị được một số bệnh ngoài da. Nước thịt quả khô khi phun lên
cây có thể xua đuổi nhiều loài côn trùng, đặc biệt hữu hiệu đối với châu chấu.
Hạt: hạt xoan chịu hạn chứa nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học như
azadirachtin, meliantriol, salanin, trong đó quan trọng nhất là azadirachtin.
Azadirachtin là hoạt chất chính có tác dụng phòng trị nhiều loại côn trùng thuộc các
bộ, họ khác nhau. Dịch chiết từ hạt được dùng để sản xuất thuốc trừ sâu, thuốc giảm
đau, thuốc sát trùng và cả thuốc ngừa thai. Ngoài ra, dầu hạt xoan chịu hạn còn được
dùng trong ngành công nghiệp mỹ phẩm, xà phòng và nhiều lĩnh vực khác.
Bánh dầu neem: là sản phẩm phụ có giá trị của công nghiệp ép dầu.
Bánh dầu chứa khoảng 1,07 – 1,36 % lưu huỳnh, 2 – 3 % nitơ. Với 2 – 3% đạm; 1%
lân; 1,4 % kali trong thành phần, bánh dầu neem là nguồn nguyên liệu tốt sản xuất
phân hữu cơ nhằm cung cấp dinh dưỡng cho cây, duy trì và cải thiện độ phì của đất,
giải quyết được vấn đề chất thải của ngành công nghiệp ép dầu (Lâm Công Định,
1985; 1991; 1998 và Lim, 1994).
Khi nói về giá trị của xoan chịu hạn, Dennis (1992) đã khẳng định: “neem là
loài cây có thể giải quyết nhiều vấn đề của toàn cầu”.
2.2 Tình hình nghiên cứu về cây xoan chịu hạn
2.2.1 Trên thế giới
Cây xoan chịu hạn đã được trồng phổ biến ở Ấn Độ và Burma như một loại cây
thuốc có giá trị và cho đến nay, Ấn Độ vẫn là nước trồng xoan chịu hạn lớn nhất thế
giới. Tại đây, cây xoan chịu hạn được trồng khắp nơi và được xem như là loài cây tiêu
biểu của quốc gia. Hơn 14 triệu cây xoan chịu hạn cho 418.633 tấn hạt/ năm đã đem
lại nguồn lợi hàng năm khoảng 1 vạn tấn dầu và 4 vạn tấn bánh dầu (Gupta và Sharma,
1998).
Cuối những năm 1920, các nhà khoa học Ấn Độ đã có những nghiên cứu đầu
tiên về cây xoan chịu hạn nhưng kết quả của họ chưa được đánh giá cao [33].
8
Năm 1959, nhà côn trùng học người Đức Heinrich Schmutterer chứng kiến nạn
dịch châu chấu ở Sudan, ông quan sát thấy xoan chịu hạn là cây duy nhất không bị
châu chấu tấn công. Từ đó ông bắt đầu quan tâm nghiên cứu các hoạt chất trong cây
xoan chịu hạn [33].
Năm 1962, Heinrich Schmutterer và các nhà khoa học Ấn Độ đã chứng minh
rằng dịch chiết từ xoan chịu hạn có khả năng xua đuổi được châu chấu và dịch chiết từ
hạt có hiệu lực hơn so với dịch chiếc từ lá xoan chịu hạn [33].
Năm 1971, lần đầu tiên Morgan và cộng sự đã cô lập và xác định được hợp chất
azadirachtin, hợp chất gây ngán ăn mạnh nhất đối với côn trùng từ hạt xoan chịu hạn
[30].
Từ năm 1971 đến 1992, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hóa học của xoan
chịu hạn; về đặc điểm sinh thái của xoan chịu hạn; về vấn đề chiết xuất hoạt chất sinh
học từ xoan chịu hạn; về phương thức hoạt động của azadirachtin lên côn trùng; về
tính gây ngán ăn của dịch chiết từ xoan chịu hạn đối với côn trùng; về ảnh hưởng của
dịch chiết từ xoan chịu hạn lên nhện, tuyến trùng, giun tròn và lên nấm, .v.v. Các
nghiên cứu này được báo cáo và trình bày trong 3 cuộc hội thảo quốc tế về xoan chịu
hạn tổ chức ở Đức và Kenya; 2 hội thảo ở Mỹ; tạp chí “Neem Newletter” ở Ấn Độ, .v.
v. Cụ thể là:
- Năm 1980, hội thảo quốc tế về cây xoan chịu hạn được tổ chức tại Rottach –
Egern, Đức.
- Năm 1983, hội thỏa quốc tế về cây xoan chịu hạn được tổ chức tại
Rauischholzhausen, Đức.
- Năm 1984, các nhà khoa học Ấn Độ cho ra đời tập chí “Neem Newletter”,
cung cấp các ấn phẩm miễn phí về việc nghiên cứu và sử dụng cây xoan chịu hạn.
- Năm 1986, hội thảo quốc tế về cây xoan chịu hạn được tổ chức tại Nairobi,
Kenya.
- Năm 1989, Bộ Nông nghiệp Mỹ xuất bản một thư mục với chủ đề “Cây
Neem: Tác nhân ức chế sự sinh trưởng và gây ngán ăn ở côn trùng”.
- Năm 1990, Mỹ tổ chức hội thảo quốc gia về xoan chịu hạn lần thứ nhất và
năm 1991, Mỹ tổ chưc hội thảo quốc gia về xoan chịu hạn lần thứ hai [33].
Giai đoạn từ 1992 đến nay, các nhà khoa học trên thế giới tiếp tục tổ chức
những hội thảo quốc tế về cây xoan chịu hạn (lần thứ 4 ở Ấn Độ vào năm 1993, và lần
9
thứ 5 ở trường Đại học Queensland Gatton College, Úc) và nhiều công trình nghiên
cứu tổng thể cũng như các nghiên cứu có tính chuyên sâu về cây xoan chịu hạn như:
Nghiên cứu về quá trình ra hoa, ra hạt của cây; nghiên cứu những biện pháp cải tiến di
truyền ở xoan chịu hạn, kỹ thuật tạo dòng và các kỹ thuật công nghệ sinh học để thu
hiệu suất cao về xoan chịu hạn; chuẩn hóa kỹ thuật nhân giống; nghiên cứu về những
ứng dụng của xoan chịu hạn trong Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Y - Dược; nghiên cứu
chiến lược sản xuất và quản lý cây xoan chịu hạn .v.v. [31; 32; 33; 36; 37].
2.2.2 Ở Việt Nam
Năm 1981 GS. Lâm Công Định đã tiến hành những khảo nghiệm trồng thử cây
xoan chịu hạn giống Senegal ở Bình Thuận. Bước đầu cho thấy cây xoan chịu hạn
thích nghi tốt đối với vùng đất khô cằn này [5].
Bên cạnh đó, vịêc nghiên cứu hoạt chất tách chiết từ cây xoan chịu hạn và cây
xoan ta cũng đã được nghiên cứu tại một số cơ sở nghiên cứu ở Hà Nội (công trình
nghiên cứu của PGS. TS Nguyễn Đăng Diệp, PGS. TSKH Nguyễn Nghĩa Thìn, Đại
học quốc gia Hà nội, và TS. Nguyễn Trường Thành, Viện bảo vệ thực vật Hà Nội).
Theo đánh giá chung, thuốc trừ sâu thảo mộc từ xoan chịu hạn tuy không mạnh bằng
thuốc trừ sâu hóa học, nhưng có phổ tác động rộng, thời gian tác động chậm đặc trưng
cho thuốc trừ sâu sinh học. Các nghiên cứu này còn bị hạn chế do nguồn nguyên liệu
ít, không đáng kể về mặt số lượng, hơn nữa cây xoan chịu hạn tỏ ra không thích hợp
đối với các tỉnh phía Bắc (không ra hoa, phát triển chậm …) [24].
Từ đầu những năm 1990, việc trồng xoan chịu hạn đã được đẩy mạnh ở 2 tỉnh
khô hạn nhất của nước ta là Bình Thuận và đặc biệt là Ninh Thuận. Tỉnh Ninh Thuận
tiến hành trồng thử xoan chịu hạn giống Senegal và Ấn Độ trên vùng đất cát hoang,
chạy dọc theo biển có khí hậu rất khắc nghiệt, lượng mưa trung bình hằng năm nhỏ và
chỉ tập trung trong 2 – 3 tháng. Hiện đã trồng được 380 ha trong đó có 70 ha xoan chịu
hạn thuần loại. Một số diện tích trồng từ năm 1996 (7 ha) đã cho hoa và trái. Điều này
chứng tỏ cây xoan chịu hạn thích hợp với vùng đất khô cằn này và việc trông xoan
chịu hạn trước mắt là phục vụ cho mục đích phủ xanh đất trống, cải tạo môi trường
sống và đồng thời tạo nguồn nghiên liệu có giá trị phục vụ cho nhiều mục đích sử
dụng [24].
Năm 1991, Giáo sư Lâm Công Định đã viết một cuốn sách nói về loài cây xoan
chịu hạn (Azadirachtin indica A.Juss) được nhập nội vào Việt Nam và công bố những
10
nghiên cứu về điều kiện khí hậu, canh tác để phát triển loài cây này trên vùng đất cát
nóng Tuy Phong thuộc tỉnh Bình Thuận [5].
Năm 1999 – 2000, Viện Sinh học Nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến
hành thử nghiệm dầu xoan Ấn Độ lên sự phát triển bọ hà khoai lang và nghiên cứu ảnh
hưởng của dầu xoan chịu hạn lên sự ký sinh của bọ hà khoai lang, kết quả cho thấy dầu
xoan chịu hạn có hiệu lực phòng trừ bọ hà khoai lang [18], có tác dụng làm giảm sự ký
sinh, sự sinh sản của bọ hà đối với khoai lang ngay từ tuần đầu tiên và có tác dụng xua
đuổi bọ hà đến ký sinh [19]. Bên cạnh đó, Viện cũng đã hoàn thành qui trình nhân
giống cây xoan chịu hạn bằng nuôi cấy mô [19].
Năm 2001, Dương Anh Tuấn và cộng sự bước đầu nghiên cứu thành công việc
chiết tách và tinh sạch Azadirachtin từ nhân hạt xoan chịu hạn trồng tại Việt Nam và
thử nghiệm hoạt tính gây ngán ăn trên sâu khoang [26].
Năm 2001, Nguyễn Thị Minh Hà đã khảo sát thành phần hóa học của hạt và lá
xoan chịu hạn thu hái từ các cây xoan chịu hạn trồng tại Việt Nam; chiết xuất thô hoạt
chất sinh học từ nhân hạt xoan chịu hạn và thử tác dụng kháng nấm Fusarium
oxysporum, Alternaria sp. của sản phẩm chiết xuất thô này [9].
Năm 2001, Nguyễn Thị Thủy đã khảo sát hoạt tính ức chế sinh trưởng rầy nâu
và ngài gạo của sản phẩm chiết xuất từ nhân hạt xoan chịu hạn [25].
Năm 2003, Vũ Văn Độ, Nguyễn Tiến Thắng đã chiết xuất, tinh sạch và xác
định được hàm lượng azadirachtin và salanin trong nhân hạt xoan chịu hạn.
Năm 2003, Trần Thị Hồng Anh đã khảo sát hoạt tính ức chế sâu hại của sản
phẩm chiếc xuất từ xoan chịu hạn [1].
Năm 2003, Vũ Đăng Khánh đã khảo sát hoạt tính kháng một số loài nấm gây
bệnh và nấm Aspergillus flavus sinh độc tố Aflatoxin của sản phẩm chiết xuất từ xoan
chịu hạn trồng tại Việt Nam [12].
Năm 2004, Lê Thị Thanh Phượng đã chiết xuất được các hoạt chất sinh học từ
nhân hạt Neem (Azadirachta indica A.Juss) và khoả sát tác động của chúng đối với
ngài gạo (Corcyra cephadonica St.) [18].
Năm 2005, Vũ Văn Độ, Vũ Đănh Khánh và Nguyễn Tiến Thắng đã đánh giá
được độ độc của chế phẩm phối trộn giữa dầu neem và Bt (Baccillus thuringiensis) đối
với sâu xanh (Heliothis armigara ), sâu tơ (Plutella xylostella) [6 ].
11
Năm 2001, Viện Sinh học Nhiệt đới được Nhà nước giao thực hiện đề tài cấp
nhà nước theo Nghị định thư giữa Việt Nam và Ấn Độ về “Nghiên cứu và sử dụng cây
xoan chịu hạn (Azadirachtin indica A.Juss) trồng tại Việt Nam”. Kết quả: Đã xây dựng
được bản đồ trồng xoan chịu hạn tại Ninh Thuận, nghiên cứu và hoàn thiện qui trình
nhân giống cây xoan chịu hạn và đã tiến hành trồng thử nghiệm xoan chịu hạn cấy mô
tại Ninh Phước, Ninh Thuận; xây dựng qui trình chiết xuất thô hoạt chất sinh học từ
nhân hạt, qui trình chiết tách và tinh sạch azadirachtin, salanin; xác định hàm lượng
azdirachtin, salanin và mimbin bằng kỹ thuật HPLC, khảo sát ảnh hưởng của sản phẩm
chiết xuất lên sự sinh trưởng của một số loại nấm gây bệnh và rầy nâu hại lúa [22; 24].
2.3 Các hoạt chất phòng trị côn trùng trích từ cây xoan chịu hạn
2.3.1 Các hoạt chất có trong xoan chịu hạn
Trong cây xoan chịu hạn, trên 300 hợp chất tự nhiên đã được phân lập và mô tả.
Tanin có nhiều trong vỏ cây (14%), lá cây ngoài các limonoid còn chứa tinh dầu và
alkaloid. Theo Mitra (1963), lá cây chứa alkaloid “Parisian”, xoan chịu hạn tự bảo vệ
nó khỏi nhiều loại côn trùng gây hại do nó chứa nhiều thành phần có hoạt tính kháng
côn trùng. Xoan chịu hạn chứa hỗn hợp của 3 đến 4 hợp chất chính và khoảng hơn 20
các hợp chất phụ khác, các hợp chất phụ này có tác động theo phương cách này hay
phương cách khác. Các hợp chất chính thuộc về nhóm các hợp chất tự nhiên
triterpenoid; chuyên biêt hơn, đó là các limonoid (tetranotriterpenoid) [33].
Cho đến nay, 9 limonoid trong xoan chịu hạn đã được chứng minh là có khả
năng ngăn cản sự phát triển của côn trùng, đặc biệt là những côn trùng gây dịch bệnh
cho nông nghiệp và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Nhiều limonoid mới vẫn
đang tiếp tục được phát hiện trong cây, các limonoid như azadirachtin, salannin,
meliantriol, nimbin, nimbidin được xem là thành phần hoạt chất chính trong xoan chịu
hạn. [33; 36]
2.3.2 Dầu xoan chịu hạn
Theo Tewari (1992), nhân hạt xoan chịu hạn có chứa khoảng 40,0 – 48,9% dầu,
dầu xoan chịu hạn có màu vàng nâu, mùi tỏi. Theo Ketkar (1976), nhân hạt xoan chịu
hạn khi được chiết xuất bằng phương pháp ép thu được từ 30 – 40% dầu. Cặn dầu có
thể được chiết xuất bằng một số dung môi khác. Theo Anon (1985), dầu xoan chịu hạn
có thể được tách chiết bằng cách đun sôi nhân hạt xoan chịu hạn đã được xay nhỏ
trong nước.
12
Một số đặc tính lý hoá của dầu xoan chịu hạn được trình bày ở Bảng 2.1
Bảng 2.1: Một số đặc tính lý hóa của dầu xoan chịu hạn [36]
Chỉ số khúc xạ ở 40
o
1,4617 – 1,4627
Tỷ trọng ở 30
o
0,9087 – 0,9189
Độ chuẩn 35,8
Chỉ số iod 68,0 – 75,8
Chỉ số xà phòng hóa 193 – 204
% chất khô không bị xà phòng hóa 0,8 – 2,4
Thành phần chính Acid oleic
2.3.3 Azadirachtin và các limonoid khác
2.3.3.1 Azadirachtin
Azadirachtin là hợp chất chính trong xoan chịu hạn, có công thức phân tử là
C
35
H
44
O
16
, nhiệt độ nóng chảy 154 – 158
o
C, có hoạt tính kháng côn trùng mạnh nhất,
đặc biệt là tác động xua đuổi và ức chế sinh trưởng mạnh.
Azadirachtin có cấu trúc tương tự như hormone “ecdysone”, hormone này có
tác dụng kiểm soát tiến trình biến đổi nội hóa học của côn trùng khi côn trùng chuyển
từ dạng ấu trùng sang dạng nhộng để sang dạng trưởng thành. Azadirachtin được xem
như chất ngăn cản sự tổng hợp các hormone cần thiết cho cở thể côn trùng, do đó phá
vỡ chu kỳ sống của côn trùng.
Azadirachtin tập trung nhiếu nhất trong nhân hạt xoan chịu hạn. Trung bình 1
gram nhân hạt chứa từ 2 đến 4 mg azadirachtin, đặc biệt ở Senegal, 1g nhân hạt có thể
chứa đến 9 mg azadirachtin [33].
Hàm lượng azadirachtin trong nhân hạt xoan chịu hạn cũng biến động tùy thuộc
vào nguồn gốc, xuất xứ, điều kiện khí hậu ở nhiều vùng khác nhau, trong mỗi cây
cũng có sự biến động về hàm lượng azadirachtin (Bảng 2.2), (Ermel và cộng sự, 1987;
Singh, 1987) [36].
13
Bảng 2.2: Sự biến động hàm lƣợng azadirachtin trong mẫu hạt từ nhiều nơi
khác nhau [36; 37].
Xuất xứ
Hàm lượng azadirachtin
( % trọng lượng khô)
Theo tác giả
Sri Lanka 0,2 – 0,65 Eeswara (1996)
Ấn Độ 0,2 – 0,75 Anon (1985)
Nicaragoa và Indonesia 0,48 Tewari (1992)
Togo, Burma, Mauritius 0,3 – 0,39 Anon (1985)
Sudan 0,19 Tewari (1992)
Senegal 0,33 Ermel (1995)
Kenya, Nigeria, Ghana 0,10 – 0,35 Morgan (1982)
Hàm lượng azadirachtin cũng phụ thuộc vào tời điểm thu hái, quả xoan chịu
hạn thu hoạch tốt nhất khi nó chuyển sang màu vàng hay vàng xanh, lúc này hàm
lượng azadirachtin cao nhất. không nên để quả quá chín và rụng vì hạt thường bị giảm
chất lượng khi bị rơi xuống đất [33; 36].
O
O
H
OH
H
3
CO O
O
H
O
OH
3
C
O
H
3
C
O
CH
3
O
H
H
H
3
CO
O
OH
CH
3
HO
O
CH
3
Hình 2.1: Công thức cấu tạo của Azadirachtin [36]
2.3.3.2 Meliantriol
Meliantriol là một hợp chất thuộc triterpenoid alcohol, là tác nhân gây ngán ăn
mạnh đối với côn trùng ngay cả khi xử lý với nồng độ rất thấp. Nhiều loại côn trùng đã
không dám ăn trong khoảng 2 – 6 tuần sau khi tiếp xúc với chế phẩm từ xoan chịu hạn
(hình 2.4) [36].
14
Hình 2.2: Công thức cấu tạo của meliantriol [42]
2.3.3.3 Salannin
Salannin cũng có hoạt tính gây ngán ăn mạnh và là chất chống lại sự lột xác của
côn trùng. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng chất này tác động mạnh lên sự lột xác của
con bọ cánh cứng trên dưa chuột – Acalymma vitta và bọ cánh cứng Nhật Bản –
Popillia japonica. Trong hạt, hàm lượng salannin thường từ 15 – 1247 g/ g nhân hạt
xoan chịu hạn (Eeswara và cộng sự, 1996), (hình 2.5) [36].
Hình 2.3: Công thức cấu tạo của Salannin [42]
2.3.3.4 Nimbin và Nimbidin
Hai chất này được xem là có hoạt tính kháng virus mạnh. Chúng tỏ ra có hiệu
quả đối với virus gây bệnh trên cây cà chua, bệnh đậu mùa và bệnh trên gia cầm.
Eeswara và cộng sự (1996) báo cáo rằng nimbidin có trong hạt xoan chịu hạn từ 9 đến
619 g/ g nhân hạt (hình 2.6) [36].
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét