Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam.DOC

“Thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam”
2. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ cũng như mọi chính sách kinh tế vĩ mô khác đều có
mục tiêu riêng của nó, đó là mục tiêu: ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định
hệ thống tài chính, thị trường ngoại hối, tăng trưởng kinh tế
Bên cạnh đó, muốn cho một nền kinh tế phát triển thì phải tạo được
nhiều công ăn việc làm. Muốn tạo được nhiều công ăn việc làm thì Nhà nước
phải điều tiết nền kinh tế trước hết là điều tiết lượng tiền sao cho khuyến
khích khả năng đầu tư và sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế ổn định
nền kinh tế, từng bước xây dựng hoàn chỉnh những chính sách và điều kiện
pháp lý, kích thích người dân tham gia hoạt động sản xuất đi xây dựng các
khu vực kinh tế mới, đảm bảo cho sự phát triển đồng đều của nền kinh tế.
Ngoài ra, việc thực thi chính sách tiền tệ còn nhằm mục tiêu ổn định
giá cả mà thực chất là mục tiêu ổn định lạm phát. Muốn ổn định được lạm
phát thì chúng ta phải có những công cụ thích hợp để điều hoà được lượng
tiền trong lưu thông. Do hàng năm nếu nền kinh tế tăng trưởng thì ta phải tăng
thêm lượng tiền vào lưu thông với khối lượng đúng bằng tỷ lệ tăng trưởng đó.
Có như vậy thì giá cả mới được ổn định, tỷ lệ lạm phát được ổn định. Nếu
như ta vẫn ấn định một khối lượng tiền tệ cứng nhắc một lần cho khoảng thời
gian dài sẽ có tác dụng làm cho giá cả và lương giảm nếu sản xuất tăng nên
tạo ra nhiều căng thẳng trong hoạt động sản xuất, lưu thông phân phối, ảnh
hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Như vậy việc duy trì giá cả hay mức lạm phát
ở mức hợp lý chính là một công việc hết sức khó khăn và phức tạp. Đòi hỏi
các nhà nghiên cứu phải nghiên cứu tỷ lệ lạm phát dự kiến để từng bước điều
chỉnh tỷ lệ lạm phát trong tương lai.
Mặt khác, việc thay đổi cung ứng tiền tệ nhằm thay đổi lãi suất là một
nhiệm vụ của chính sách tiền tệ. Thực tế cho thấy lãi suất ảnh hưởng trực tiếp
tới đầu tư, tác động vào sản xuất sản phẩm, đồng thời ảnh hưởng đến tỷ lệ dự
Sinh viên: Nguyễn Đức Quỳnh GVHD: Đoàn Phương Thảo
5
“Thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam”
trữ của ngân hàng thương mại Do vậy, phải ổn định lãi suất thì nền kinh tế
mới phát triển một cách vững chắc được.
Ngày nay, khi nền kinh tế thế giới đang phát triển, nhu cầu buôn bán
giao lưu quốc tế ngày càng tăng thì mục tiêu ổn định thị trường ngoại hối
ngày càng trở nên quan trọng. Do đó, nhà nước phải ổn định sức mua của
đồng tiền, tỷ giá, phải thu hút ngoại tệ phục vụ cho sự phát triển của đất nước.
Chính sách tiền tệ đóng vai trò quan trọng, góp phần rút ngắn thời gian
ngưng trệ và suy thoái kinh tế để chuyển sang giai đoạn tăng trưởng kinh tế,
nhất là làm sao duy trì một mức độ tăng trưởng với lạm phát ở tỷ lệ chấp
nhận được, có thể là tỷ lệ lạm phát một con só, hay nói cách khác một tỷ lệ
lạm phát thấp với tỷ lệ thất nghiệp thấp.
3. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ của NHTƯ về điều tiết cung ứng tiền để hình thành
lãi suất, dự trữ, tỷ giá nhằm điều tiết kinh tế vĩ mô được thực hiện thông qua
các công cụ của nó. Những công cụ này là những thao tác nghiệp vụ mà
NHTƯ thực hiện thường xuyên như những hoạt động bình thường mỗi ngày.
Có các loại công cụ chủ yếu sau:
3.1. Chính sách chiết khấu
Chính sách chiết khấu là công cụ của Ngân hàng trung ương trong việc
thực thi chính sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng
kinh doanh. Khi Ngân hàng trung ương cho vay các ngân hàng kinh doanh
làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng
tiền cung ứng.
Cơ chế tác động
Ngân hàng trung ương kiểm soát công cụ này chủ yếu bằng cách tác
động đến giá cả khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết khấu).
Sinh viên: Nguyễn Đức Quỳnh GVHD: Đoàn Phương Thảo
6
“Thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam”
Khi Ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu, tức làm cho giá
của khoản vay tăng, hạn chế cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả
năng cho vay đối với nền kinh tế của các ngân hàng kinh doanh giảm xuống,
lượng tiền cung ứng giảm.
Ngược lại, khi Ngân hàng trung ương giảm lãi suất cho vay tái chiết
khấu, giá của khoản vay rẻ hơn, khuyến khích cho vay các ngân hàng kinh
doanh, làm cho khả năng cho vay của ngân hàng kinh doanh đối với nền kinh
tế tăng lên, lượng tiền cung ứng tăng lên.
Nếu chính sách là thắt chặt: NHTƯ quyết định nâng cao lãi suất chiết
khấu. Lãi suất chiếu khấu tăng làm cho NHTG không thể vay NHTƯ nhiều và
dễ dàng như trước. NHTG phải hạn chế bớt những cơ hội cho vay để bảo đảm
dự trữ. Như vậy, tác động trước hết làm tăng dự trữ của các NHTG, giảm cho
vay, hậu quả là tổng cầu và sản lượng giảm theo. Tác động tiếp theo làm cho
NHTG có ý thức rằng trong trường hợp khẩn cần vay nóng của NHTƯ thì
NHTG phải trả lãi suất cao buộc NHTG phải từ từ nâng lãi suất lên theo để
tránh thiệt hại khi phải vay của NHTƯ. Do đó lãi suất tiếp tục thắt chặt làm
ảnh hưởng đến cung ứng tiền và tác động đến nền kinh tế.
Ưu điểm
• Do việc vay mượn thực hiện trên nền các giấy tờ có giá nên thời hạn
vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả tương đối chắc chắn.
• Thông qua biện pháp chiết khấu và tái chiết khấu cụ thể là thông qua lãi
suất chiết khấu, NHTƯ có thể thực hiện tốt hơn vai trò người cho vay
cuối cùng.
Hạn chế
• NHTƯ có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt các
NHTM phải đi vay tức là NHTM có quyền tự do vay hoặc không. Do
vậy NHTƯ khó có thể kiểm soát được việc cung ứng tiền một cách có
Sinh viên: Nguyễn Đức Quỳnh GVHD: Đoàn Phương Thảo
7
“Thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam”
hiệu quả. Hơn nữa lại rất khó trong việc đảo ngược những thay đổi
trong chính sách chiết khấu.
• Khi NHTƯ ấn định một lãi suất đặc biệt nào đó tạo ra sự biến động
khoảng cách giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất thị trường, dẫn tới
thay đổi ngoài dự kiến khối lượng tiền vay, khó kiểm soát cung tiền tệ.
3.2 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại, mà
không được dùng để cho vay hoặc đầu tư, mức dự trữ này do Ngân hàng trung
ương quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách
hàng tại các tổ chức tín dụng.
Cơ chế tác động
Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền
tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM. Mặt khác khi
tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm
(tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng (giảm), từ đó làm cho lượng cung ứng
tiền giảm (tăng)
Ưu điểm
• Có thể thấy, dự trữ bắt buộc là công cụ tiềm năng của chính sách tiền
tệ, nó có thể tác động đến tất cả các ngân hàng và tác động mạnh tới
cung tiền.
• Khi sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì nguồn vốn tư bản nước ngoài
không thể theo con đường gián tiếp mà phải đầu tư trực tiếp có lợi cho
nền kinh tế.
• Tạo điều kiện cho sự kiểm soát tín dụng của NHTƯ đối với NHTM,
đồng thời tránh sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng.
Hạn chế
Sinh viên: Nguyễn Đức Quỳnh GVHD: Đoàn Phương Thảo
8
“Thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam”
Sẽ rất vất vả để thực hiện những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ
bằng cách thay đổi RR bởi vì phải tốn kém rất nhiều để quản lý những thay
đỏi trong RR. Thực tế cho thấy đây là một công cụ quá mạnh, chỉ cần tăng
một lượng nhỏ RR sẽ làm cho
1
D = x R giảm xuống một lượng rất lớn gây ra những cú sốc.
rr
Mặt khác, RR có thể gây rắc rối với vấn đề thanh khoản của NHTM.
Đối với những NHTM có ER ở mức thấp làm cho hệ số sử dụng vốn của các
NHTM quá thấp ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách lãi suất
của các NHTM này. Gây ra sự bất lợi cho kinh doanh và huy động vốn của
các NHTM và làm đình đốn tín dụng.
3.3. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là những hoạt động mua bán chứng khoán do
NHTƯ thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó
điều tiết lượng tiền cung ứng.
Cơ chế tác động
• Khi Ngân hàng trung ương mua chứng khoán, làm tăng cơ số tiền tệ,
qua đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
• Khi Ngân hàng trung ương bán chứng khoán, làm thu hẹp cơ số tiền tệ,
qua đó làm giảm lượng tiền cung ứng.
Ưu điểm
• Nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt và chính xác, có thể sử dụng ở bất
cứ mức độ nào. Nó có thể thực hiện mong muốn thay đổi mức dự trữ
bằng việc mua và bán trái phiếu cổ phiếu. Nếu muốn mức thay đổi nhỏ,
Sinh viên: Nguyễn Đức Quỳnh GVHD: Đoàn Phương Thảo
9
“Thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam”
NHTƯ có thể mua, bán ít trái phiếu. Còn nếu muốn thay đổi lớn thì
NHTƯ mua hoặc bán nhiều trái phiếu hơn.
• Nghiệp vụ thị trường mở rất dễ dàng đảo ngược lại: nếu NHTƯ thấy
cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do sức mua trên thị trường tự do quá
nhiều thì có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ
bán trên thị trường tự do.
• Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTƯ có thể điều tiết lượng tiền
như ý muốn vì các NHTM có quyền tự do trong việc mua hay không
mua trái phiếu.
• Nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng, ít tốn
kém về chi phí và thời gian.
Hạn chế
NHTƯ có thể không đạt được mục tiêu đã đề ra do nghiệp vụ thị
trường mở chỉ thực sự hữu hiệu khi nền kinh tế đã phát triển rất cao, cơ chế
thanh toán không dùng tiền mặt đã phát triển.
Ngoài 3 công cụ được sử dụng một cách thường xuyên như trên, đối
với các nước khác nhau thì có những đặc điểm về kinh tế và chính trị, xã
hội khác nhau. Do đó việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ được
mở rộng thêm như hạn mức tín dụng , khung lãi suất tiền gửi và cho vay.
3.4. Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng tối đa mà NHTƯ có thể cung
ứng cho tất cả các NHTM trong thời kỳ nhất định (năm hay quý), phù hợp với
mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ đó.
Khi ổn định hạn mức tín dụng cho mỗi thời kỳ, NHTƯ thường căn cứ
vào kế hoạch tăng trưởng kinh tế cộng với chỉ số lạm phát cho phép trong thời
kỳ đó. Hạn mức tín dụng này không phải là chỉ tiêu ấn định cho toàn bộ nền
Sinh viên: Nguyễn Đức Quỳnh GVHD: Đoàn Phương Thảo
10
“Thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam”
kinh tế mà là chỉ tiêu ấn định đối với các doanh nghiệp. Các NHTM có thể
thực hiện mức tín dụng của mình lớn hơn mức tín dụng mà NHTƯ ấn định
cho ngân hàng mình nếu NHTM này huy động được khối lượng vốn lớn hơn.
Vì vốn do các NHTM huy động và cho vay ra dù lớn hơn rất nhiều lần hạn
mức tín dụng được NHTƯ cung ứng cũng không ảnh hưởng đến khối lượng
tiền tệ vào hay rút ra khỏi lưu thông.
Ưu điểm
Hạn mức tín dụng là một biện pháp mạnh có hiệu quả đáng kể. Thông
qua đó, NHTƯ khống chế được lượng tiền cung ứng một cách có hiệu quả.
Hạn chế
• Trên cơ sở hạn mức tín dụng, NHTƯ tiến hành phân bổ hạn mức tín
dụng. Cùng với thời gian, hạn mức có từng thời điểm này phù hợp, thời
điểm khác lại không phù hợp. Điều này gây ra các khó khăn cho các
đơn vị khi nhu cầu vay vốn của khách hàng tăng cao trong khi đó các
nguồn kể cả hạn mức tín dụng cũng không đủ.
• Kiểm soát bằng hạn mức là cách kiểm soát gò bó, cứng nhắc không phù
hợp với cơ chế hiện nay, một cơ chế đòi hỏi sự quản lý phải hết sức
mềm dẻo, uyển chuyển, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm mất đi
cơ hội đầu tư của một số ngân hàng, giảm khả năng điều tiết của
NHTƯ. Vì việc điều chỉnh tăng hạn mức tín dụng không thể một sớm
một chiều mà cần có thời gian vì vậy tính kịp thời khó đảm bảo.
• Việc kiểm soát bằng hạn mức tín dụng có thể là một trong nhiều
nguyên nhân đẩy lãi xuất lên. Trong khi nhu cầu chiết khấu để vay
NHTƯ của một số ngân hàng phát sinh không được giải quyết do hết
hạn mức tín dụng thì ở một số ngân hàng khác mức tín dụng lại tạm
thời dư thừa. Ở đây quan hệ trao đổi sẽ diễn ra và chi phí sẽ góp phần
làm cho lãi xuất tăng lên.
Sinh viên: Nguyễn Đức Quỳnh GVHD: Đoàn Phương Thảo
11
“Thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam”
3.5. Khung lãi xuất tiền gửi và cho vay
Thông thường chính sách lãi suất tiền gửi và cho vay biến đổi cùng
chiều, nghĩa là cả hai mức lãi xuất đó đều tăng nên hay giảm xuống: Khi lãi
xuất tiền gửi được tăng lên thì lãi xuất cho vay cũng được nâng lên và ngược
lại, tuỳ theo chính sách của NHTƯ. Trong thực tế, NHTƯ định hướng tín
dụng cho các NHTM qua chính sách lãi xuất chiết khấu và tái chiết khấu như
đã trình bày ở phần trên. NHTƯ rất ít khi quy định một lãi xuất cố định trần
hay sàn. Vì nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút nhiều tiền gửi, giảm khả năng
kinh doanh tín dụng. Song biện pháp này sẽ làm cho các NHTM mất tính chủ
động, linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác, nó dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn
của các ngân hàng, nhưng lại thiếu vốn đầu tư, hoặc khuyến khích dân cư
dùng tiền vào dự dữ vàng, ngoại tệ, bất động sản trong khi ngân hàng hụt
hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay. NHTƯ có thể quy định khung
lãi suất cho vay buộc các ngân hàng kinh doanh phải chấp hành. Khi muốn
tăng khối lượng cho vay, NHTƯ giảm mức lãi suất cho vay để kích thích các
nhà đầu tư vay vốn. Khi cần hạn chế đầu tư NHTƯ ấn định mức lãi suất cao.
Ưu điểm
Biện pháp này có ưu điểm là giúp các ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế
tối ưu để cho vay, loại bỏ các dự án kém hiệu quả
Nhược điểm
Tuy nhiên quy định khung lãi suất tiền gửi hay quy định lãi suất trần và
sàn làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm, các NHTM bị
động trong kinh doanh, hạn chế đầu tư.
Sinh viên: Nguyễn Đức Quỳnh GVHD: Đoàn Phương Thảo
12
“Thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam”
PHẦN II
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở
VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ
Kể từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quá trình thực
hiện chính sách tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh
tế của nó và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lượng tiền cung ứng: Nếu như trong thời kỳ bao cấp
chúng ta chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền
mặt và mức cung là bao nhiêu, ở thời kỳ nào là do Chính phủ phê duyệt thì
ngày nay việc quan niệm về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên lượng tiền
mặt còn tính đến khả năng tạo tiền của các NHTM, tổ chức tín dụng khác.
Bên cạnh đó lượng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỉ lệ lạm phát
ước tính, tốc độ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch, vòng quay tiền tệ…
Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: được sử dụng một
cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ
không đông cứng, đóng băng như ở thời kỳ bao cấp.
Cơ chế điều hành: Năm 1988, hệ thống Ngân hàng đã được phân thành
2 cấp là Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng Thương mại, trong đó Ngân
hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ – tín dụng –
ngân hàng và trực thuộc Chính phủ. Thống đốc NHNN có quyền chủ động
hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia.
Sinh viên: Nguyễn Đức Quỳnh GVHD: Đoàn Phương Thảo
13
“Thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam”
2. Thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam
2.1. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là một công cụ quan trọng nhất thuộc tầm chiến lược
của chính sách tiền tệ. Với một tỷ lệ dự trữ bắt buộc hợp lý sẽ làm cho các
NHTM có thể thực hiện được chức năng tạo tiền và hạn chế khả năng tạo tiền
khi cần thiết. Thực tế cho thấy quốc gia nào sử dụng tốt công cụ này thì sẽ có
thể điều tiết được một cách có hiệu quả chu kỳ phát triển của nền kinh tế, ổn
định tiền tệ và kiểm soát được lạm phát.
Ở nước ta, công cụ dự trữ bắt buộc chính thức được sử dụng từ năm
1989. Từ đó đến nay công cụ này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc
làm tăng, giảm hệ số tạo tiền, kiểm soát tốc độ tăng của tổng phương tiện
thanh toán và áp lực tăng giá cả của nền kinh tế. Đối với nước ta, trong một
thời gian dài Nhà nước (NHTƯ) đã quy định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
hệ thống ngân hàng là 10%. Tỷ lệ này được ổn định và giữ cố định trong khi
cùng thời gian này chính sách tiền tệ đã có những thay đổi nhiều sao cho phù
hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Như vậy, việc
thực hiện bơm tiền vào lưu thông luôn được thực hiện theo những dự kiến
nhất định mà không hề tính đến sự biến động của nền kinh tế. Mặt khác, điều
quan trọng đối với hệ thống ngân hàng là khả năng tạo tiền thì trong thực tế
có nhiều phản ứng không thuận lợi. Các ngân hàng có thể không kiếm đủ
khách hàng để cho vay tới mức tối đa. Trong rất nhiều trường hợp, hoạt động
kinh tế phát triển, nhu cầu tiền mặt trong lưu thông phải nhiều hơn, do đó khả
năng những cuộc chi trả do khách hàng vay ở ngân hàng thực hiện sẽ không
trở lại ngân hàng hàng ngày, tức là giảm bớt khả năng cho vay và tạo ký thác
ở những ngân hàng kế tiếp. Từ đó có thể suy ra, việc cung ứng tiền hay thu
hẹp khối lượng tiền tệ trong lưu thông bằng tỷ lệ dự trữ bắt cuộc không phải
là hoàn hảo. Đến đầu năm 1994, NHTƯ có sự thay đổi trong quy định tỷ lệ dự
trữ bắt buộc (đối với tiền gửi không kỳ hạn là 13%, đối với tiền gửi có kỳ hạn
Sinh viên: Nguyễn Đức Quỳnh GVHD: Đoàn Phương Thảo
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét