xuất mới tiến bộ hơn. Trong mỗi phơng thức sản xuất thì lực lợng sản xuất là
yếu tố động đóng vai trò quyết định. Lực lợng sản xuất là thớc đo năng lực thực
tiễn của con ngời trong quá trình cải tạo tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển xã hội loài ngời, làm thay đổi mối quan hệ giữa ngời với ngời và
từ đó dẫn tới sự thay đổi các mối quan hệ xã hội. Trong tác phẩm "Sự khốn
cùng của triết học", Mác viết: " Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết
với những lực lợng sản xuất mới, loài ngời thay đổi phơng thức sản xuất, cách
kiếm sống của mình, loài ngời thayđổi tất cả những mối quan hệ xã hội của
mình". Khi lực lợng sản xuất trớc hết là t liệu sản xuất thay đổi và phát triển thì
quan hệ sản xuất tất yếu cũng thay đổi và phát triển theo, khi đó bắt đầu thời
đại của một cuộc cách mạng xã hội. Nh vậy, lực lợng sản xuất không chỉ là yếu
tố khách quan, năng động nhất của phơng thức sản xuất mà còn là yếu tố cấu
thành nền tảng vật chất của toàn thể nhân loại.
Trong sự phát triển của lực lợng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng
to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ
thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học phát triển và đạt đợc nhiều thành
tựu to lớn. Khi mà con ngời đã trải qua ba cuộc đại cách mạng công nghiệp lần thứ
nhất, lần thứ hai và lần thứ ba thì khoa học trở thành nguyên nhân trực tiếp của
nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành "lực lợng sản xuất
hàng đầu", là yếu tố không thể thiếu đợc để làm cho lực lợng sản xuất có động lực
để tạo nên những bớc phát triển nhảy vọt tạo thành cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại. Có thể nói rằng :"khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trng
cho lực lợng sản xuất hiện đại. CacMác đã từng dự báo: " Theo đà phát triển của
đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực tế trở nên ít phụ thuộc vào trình độ chung
của khoa học và vào số lợng lao động đã chi phí hơn vào sức mạnh của những tác
nhân đợc khởi động trong thời gian lao động, và bản thân những tác nhân, đến lợt
chúng ( hiệu quả to lớn của chúng ) tuyệt đối không tơng ứng với thời gian lao
động trực tiếp cần thiết để sản xuất ra chúng mà đúng ra chúng phụ thuộc vào
trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào
việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất " và trong thời đại ngày nay đã khẳng
định: phát triển xã hội hội không thể dựa trên nền tảng vững chắc của khoa học-
công nghệ hiện đại.
Theo quan niệm của Mác, mỗi hình thái kinh tế-xã hội đợc hình thành từ
nhiều yếu tố, nhiều mối quan hệ nh: mối quan hệ giữa lực lợng sản xuất và quan
5
hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng Các yếu tố, các mối quan
hệ này luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau tạo thành động lực nội tại của sự phát
triển xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Xuất phát từ quan niệm đó, CacMác đã cho
rằng ngay trong cùng một hình thái kinh tế-xã hội thì không phải bất cứ lúc nào nó
cũng đợc thể hiện dới một hình thức giống nhau. Chính vì lẽ đó, Mác đòi hỏi phải
vận dụng phơng pháp phân tích lịch sử cụ thể khi sử dụng phạm trù hình thái kinh
tế-xã hội vào vệc xem xét, phân tích một xã hội cụ thể, phải làm rõ đợc vai trò, vị
trí và sự tác động của những quan hệ xã hội đó trong đời sống xã hội. Chỉ có nh
vậy chúng ta mới có thể rút ra những kết luận có tính quy luật của một xã hội cụ
thể khi áp dụng phạm trù hình thái kinh tế-xã hội vào việc nghiên cứu xã hội đó.
Và xét cho đến cùng, thì sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực xã hội
mới là yếu tố quyết định tiến trình phát lịch sử của nhân loại hàng nghìn năm qua.
Ph.Anghen nói: '' Theo quan niệm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong quá
trình lịch sử xét đến cùng là sản xuất và tái sản xuất đời sống hiện thực. Cả tôi lẫn
Mác cha bao giờ khẳng định gì hơn thế ". Lịch sử phát triển của xã hội loài ng ời
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là
một hình thái kinh tế xã hội nhất định, và sự tiến bộ xã hội chính là sự vận động
theo hớng hoàn thiện dần của các hình thái kinh tế xã hội, là sự thay đổi hình thái
kinh thái kinh tế lạc hậu lỗi thời bằng hình thái kinh tế xã hội tiến bộ, hiện đại hơn
mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển không ngừng của lực lợng sản xuất. Nó là
nền tảng, là cơ sở vật chất-kĩ thuật, là yếu tố quyết định sự hình thành, phát triển
và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội. Mác viết: ''Tôi coi sự phát
triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một qúa trình lịch sử tự nhiên" nhng sự
phát triển xã hội chẳng những có thể diễn ra bằng con đờng phát triển tuần tự từ
hình thái kinh tế-xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn có thể diễn
ra bằng con đờng bỏ qua một giai đoạn phát triển nào đó, một hình thái kinh tế-xã
hội nào đó trong những điều kiện khách quan và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Dựa trên những t tởng cụ thể của học thuyết Mác về hình thái kinh tế-xã hội
với vai trò then chốt của lực lợng sản xuất là cơ sở lý luận cho phép chúng ta
khẳng định sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hớng XHCN là
nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn
phát triển CNTB, là quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta.
2. Khoa học và côngnghệ trong nền kinh tế toàn cầu.
6
Trong nửa thế kỷ qua, việc duy trì tốc độ tăng trởng kinh tế và tạo ra công ăn
việc làm luôn luôn đứng ở vị trí cao trong trong danh mục những u tiên hàng đầu
của nhiều nớc trên thế giới, đặc biệt là các nớc đang phát triển. Kết quả của nhiều
công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã cho thấy rằng ít nhất một nửa mức
tăng trởng kinh tế toàn cầu là nhờ những tiến bộ khoa học-công nghệ đem lại
thông qua việc chúng góp phần làm tăng thêm hiệu quả đầu t của các nguồn vốn
và năng suất lao động xã hội cũng nh tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới thoả mãn
nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Chính vì vậy khoa học và công nghệ đóng vai
trò rất lớn trong các chiến lợc tăng trởng kinh tế của các nớc phát triển va đang
phát triển. Sự thành công của các nớc trong việc đạt tới những mục tiêu về khoa
học công nghệ để tạo ra tăng trởng kinh tế đã tác động trực tiếp tới sức cạnh tranh
và dẫn tới kết quả là làm tăng tốc độ tăng trởng kinh tế. Nếu nh trong thiên niên kỷ
thứ nhất, than đá, sức gió, sức nớc, sức mạnh cơ bắp của ngời và gia súc là nguồn
năng lợng chủ yếu thì tới gần thiên niên kỷ thứ hai, đó là dầu khí, máy hơi nớc,
điện, năng lợng nguyên tử phân hạch. Hiện nay nhân loại đang tiến vào thiên niên
kỷ thứ ba dựa trên nền tảng của các nghành công nghiệp cao nh công nghệ thông
tin, công nghệ năng lợng hạt nhân, tổng hợp nhiệt hạch, công nghệ nanô Có thể
nói rằng từ vị trí đi sau, tổng hợp các kinh nghiệm ở hai thiên niên kỷ đầu, khoa
học và công nghệ đã trở thành động lực phát triển hàng đầu của nhiều quốc gia
trên thế giới, là lực lợng dẫn đờng và là lực lợng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế
toàn cầu hoá. Có thể nói đây là cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới nhất
trong khoa học tự nhiên, là cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Để làm
rõ vai trò của khoa học công nghệ trong nền kinh tế toàn cầu, ta cần tìm hiểu thế
nào là khoa học, công nghệ, là cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Khoa học là một khái niệm thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau: khoa
học là một hình thái ý thức xã hội, là một công cụ nhận thức; khoa học là một lĩnh
vực hoạt động xã hội; khoa học là một hệ thống tri thức của nhân loại đợc thể hiện
bằng những khái niệm, phán đoán, học thuyết Tuy nhiên định nghĩa cho rằng
khoa học là một hệ thống chỉnh thể các tri thức của tiến trình lịch sử xã hội đợc
coi là định nghĩa đầy đủ nhất dới góc độ lịch sử phát triển của khoa học. Ngoài ra,
khoa học còn đợc hiểu là quá trình hoạt động của con ngời để có đợc hệ thống tri
thức về thế giới với chức năng làm cho con ngời nắm đợc những quy luật của hiện
thực khách quan ,ngày càng làm chủ đợc những điều kiện sinh hoạt tự nhiên và xã
hội
7
Công nghệ trớc hết là tập hợp tri thức gắn liền và tơng ứng với một tập
hợp kỹ thuật (Nh máy móc, thiết bị, phơng tiện )bao gồm các tri thức về ph ơng
pháp, kỹ năng, bí quyết, kinh nghiệm đ ợc sử dụng theo một quy trình hợp lý để
vận hành, tập hợp kỹ thuật đó, tác động vào đối tợng lao động tạo ra sản phẩm
phục vụ cho nhu cầu của con ngời. Công nghệ từ chỗ chỉ dùng trong các hoạt động
lao động sản xuất ra của cải vật chất theo sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
toàn cầu thì giờ đây khái niệm đó đợc sử dụng với nghĩa rộng hơn và trong nhiều
lĩnh vực hoạt động của con ngời .
Nếu nh trong nhiều thế kỷ trớc đây khoa học chỉ phát triển một cách độc
lập riêng rẽ thì tới đầu thế kỷ 20 mối quan hệ mật thiết giữa khoa học- công nghệ
đã tạo nên cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại của xã hội loài ngời,
đánh dấu "quá trình khoa học công nghệ biến thành lực lợng sản xuất trực tiếp là
điều kiện cần để đa lực lợng sản xuất lên một bớc phát triển mới". Cho tới nay cha
có một công trình nào đa ra định nghĩa cụ thể về cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại, song về đại thể ta có thể hiểu đó là sự thay đổi căn bản trong bản
thân các lĩnh vực khoa học công nghệ cũng nh mối quan hệ và chức năng xã hội
của chúng, khiến cho cơ cấu và động thái phát triển của các lực lợng sản xuất cũng
bị thay đổi hoàn toàn. ở nét khái quát nhất có thể định nghĩa cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại là sự biến đổi tận gốc lực lợng sản xuất của xã hội
hiện đại, đợc thực hiện với vai trò dẫn đờng của khoa học công nghệ trong toàn bộ
chu trình: "khoa học - công nghệ - sản xuất- con ngời - môi trờng ". Có thể nói
rằng sự phát triển của khoa học công nghệ đã đa văn minh nhân loại quá độ sang
một giai đoạn phát triển mới về chất. Đó là kết quả của quá trình tích luỹ lâu dài
các kiến thức khoa học của việc đổi mới công nghệ sản xuất, và việc tăng quy mô
sử dụng kỹ thuật mới. Trong đó sự phát triển có tính tiến hoá và các dịch chuyển
có tính chất có tính cách mạng đã cùng tạo điều kiện cho nhau phát triển. Trong
lĩnh vực sản xuất cũng nh trong các ngành tri thức khoa học đều có thể quan sát
thấy những sự luân phiên đặc sắc của cuộc nhảy vọt và sự phát triển tuần tự trong
nhiều lĩnh vực nh :
Trong ngành năng lợng, sử dụng năng lợng nớc, cơ bắp, gió, than, điện, dầu
lửa rồi năng lợng nguyên tử và hiện nay chính là năng lợng nhiệt hạch.
Trong lĩnh vực sản xuất, từ hợp tác lao động giản đơn qua giai đoạn công tr-
ờng thủ công rồi tiến lên phơng thức sản xuất đại cơ khí với các quy trình sản xuất
8
và công nghệ đợc cơ giới hoá tổng hợp, xuất hiện các hệ thống máy móc, tạo ra
các máy tự động, tự động hoá đồng bộ, hệ thống sản xuất linh hoạt.
Trong sản xuất vật liệu, chuyển từ nguyên liệu nông nghiệp, các loại vật
liệu xây dựng truyền thống ( nh gỗ, gạch, đá ), sử dụng kim loại đen ( nh sắt
gang ) là chủ yếu sang sử dụng kim loại màu, chất dẻo, bê tông, các vật liệu kết
cấu (omposite), vật liệu thông minh vật liệu siêu dẫn
Trong công nghệ sản xuất, chế tạo từ sản xuất thủ công, tiến lên bán tự động
rồi tới công nghệ tự động hoá( tự động hoá thiết kế - chế tạo ), công nghệ thông
tin ( tin học, viễn thông vũ trụ ) công nghệ nano, công nghệ sinh học, công nghệ
hạt nhân, công nghệ không gian, công nghệ vật liệu mới
Sự khởi đầu của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đa con ngời tiến
vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của tri thức. Đây là bớc quá độ trong sự phát
triển khoa học và công nghệ hoàn toàn chỉ dựa trên cơ sở khoa học trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội và các ngành sản xuất vật chất, biến bản thân khoa học
thành nền công nghiệp tri thức trong thời đại tri thức, nền kinh tế công nghiệp sẽ
trở thành nền kinh tế thông tin (hay còn gọi là nền kinh tế tri thức, nền kinh tế tin
học, nền kinh tế mạng )
Nh vậy cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại dựa trên cơ sở cốt lõi
là cuộc cách mạng vi điện tử diễn ra từ đầu thập niên 60 và các thành tựu khoa học
kĩ thuật lớn nhất của thế kỉ XX thì đó là "bớc quá độ dới sự chỉ đạo với vai trò dẫn
đờng của khoa học sang quá trình tổ chức lại về căn bản công nghệ sản xuất, điều
tiết các quy trình công nghệ với quy mô ngày càng tăng, tổ chức lại tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội dựa trên cơ sở những ngành công nghệ cao mà các cuộc cách
mạng trớc đó cha đủ điều kiện tạo ra một cách hoàn chỉnh nh :Công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lợng mới công
nghệ tự động hoá trên cơ sở kỉ thuật vì điện tử ". Thâm nhập vào tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã tạo điều
kiện tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực xã hội. Cho phép chi phối t-
ơng đối các phơng tiện sản xuất để cùng tạo ra cùng một khối lợng hàng hoá tiêu
dùng. Kết quả là kéo theo sự thay đỗi cơ cấu của nền sản xuất xã hội ,làm thay đổi
tận gốc lực lợng sản xuất mà khoa học công nghệ là yếu tố hàng đầu. Cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại đã tác động sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội loài ngời,đa con ngời tiến vào thời đại mới- thời đại của nền kinh tế tri thức.
9
10
ch ơng II
công nghiệp hoá -hiện đại hoá ở việt nam
I: sự hình thành và phát triển công nghiệp hoá -hiện đại hoá ở Việt
Nam.
1.1 Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là gì ?
Lịch sử loài ngời trải qua 5 -6 ngàn năm (Trớc thế kỷ XVIII) thời kỳ công
trờng thủ công, gần 300 năm thời kỳ đại công nghiệp cơ khí nhng chỉ mất gần
120 năm để hoàn thành thời kỳ công nghiệp hoá đầu tiên, sau đó ở các nớc Mỹ,
Tây Âu chỉ tiến hành công nghiệp hoá trong vòng 80 năm, Nhật Bản 60 năm
và ngày nay Việt Nam cũng nh nhiều quốc gia khác trên thế giới đang tích cực
rút ngắn khoảng cách, tiến dần tới nền văn minh nhân loại cũng chính bằng
Công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Các nớc đã đi qua giai đoạn phát triển TBCN đi
vào thời kỳ quá độ lên CNXH tiến hành thực hiện quá trình tái công nghiệp
nhằm điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ
hiện đại theo yêu cầu của chế độ xã hội hội mới. Các nớc có nền kinh tế phát
triển chậm nhất là các nớc nông nghiệp lạc hậu thì tiến lên CNXH để xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật nhất thiết phải công nghiệp hoá để tạo ra cơ sở vật chất
kỹ thuật làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế-Xã hội.Vậy ta nên hiểu về phạm
trù công nghiệp hoánh thế nào ?
Quan niệm đơn giản nhất về công nghiệp hoá cho rằng: "công nghiệp hoá
đa đặc tính công nghiệp cho một hoạt động, trang bị (cho một vùng, một nớc),
các nhà máy, các loại công nghiệp ".Quan niệm mang tính triết tự này đ ợc
hình thành dựa trên cơ sở khái quát quá trình hình thành lịch sử công nghiệp
hoá ở các nớc Tây Âu, Bắc Mỹ.
Nghiên cứu định nghĩa về phạm trù công nghiệp hoá của các nhà kinh tế
Liên Xô (cũ), Cuốn "Giáo khoa về kinh tế chính trị "của Liên Xô đợc dịch sang
tiếng Việt đã định nghĩa: "công nghiệp hoá XHCN là phát triển đại công
nghiệp, trớc hết là công nghiệp nặng, sự phát triển cần thiết cho việc cải tạo
toàn bộ nền kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến. Cuốn từ
điển tiếng Việt đã giải thích: "Công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền sản
xuất cơ khí lớn trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân và đặc biệt
11
công nghiệp nặng dần tới sự tăng nhanh trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động
và nâng cao năng suất lao động. Quan điểm công nghiệp hoá là quá trình
xâydựng và phát triển đại công nghiệp trớc hết là công nghiệp nặng của các nhà
kinh tế học Liên Xô (cũ) đợc chúng ta tiếp nhận, áp dụng vào Công nghiệp hoá
- Hiện đại hoá của đất nớc ngay từ những năm 1960 với nội dung chủ đạo là
"Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời gia sức phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho CNXH". Nhng trên thực tế, chúng ta đã phải trả giá cho sự nghiệp công
nghiệp hoá XHCN theo kiểu đó khi áp đặt mô hình công nghiệp hoá XHCN ở
Liên xô vào nớc ta mà không xuất phát từ thực trạng đất nớc là một nớc nông
nghiệp lạc hậu. Tuy nhiên, dù không đạt đợc mục tiêu đề ra trong những năm
đầu tiến hành công nghiệp hoá nhng cũng nhờ đó mà chúng ta đã xây dựng đợc
một cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định, tạo ra tiềm lực mới về nhiều mặt đặc biệt
là kinh tế, quốc phòng, văn hoá, chính trị góp phần cho cuộc kháng chiến tr -
ờng kỳ của dân tộc, bảo đảm đợc phần nào đời sống vật chất của nhân dân.
Đến năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của liên hiệp quốc đã đa
ra định nghĩa về Công nghiệp hoá là: "Công nghiệp hoá một quá trình phát triển
kinh tế". Trong quá trình này, một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải
quốc dân đợc động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nớc
với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là "có một bộ phận luôn
thay đổi để sản xuất ra t liệu sản xuất, hàng tiêu dùng và có khả năng đảm bảo
cho toàn bộ nền kinh tế và xã hội ".Theo quan điểm này, quá trình công nghiệp
hoá đợc hiểu là quá trình rộng lớn và sâu sắc với nhiều mục tiêu chứ không phải
chỉ nhằm thực hiện một mục tiêu duy nhất là kinh tế kỹ thuật nh trớc kia. Dựa
trên cơ sở kỹ thuật đó, chúng ta nhận thức rõ đợc sai lầm của mình trên con đ-
ờng công nghiệp hoá XHCN theo kiểu cũ, cứng nhắc và kém hiệu quả. Cả lý
luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng: Quá trình phát triển đầy khó khăn, thử thách
từ tình trạng kinh tế lạc hậu sang trạng thái kinh tế phát triển hiện đại không thể
không tiến hành công nghiệp hoá và cùng với công nghiệp hoá là hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá và là hai quá trình nối tiếp và
đan xen lẫn nhau. Trớc đó, ở các nớc Mỹ và Tây Âu, họ đã tiến hành công
nghiệp hoá khá lâu rồi mới đi vào hiện đại hoá và cho tới nay, quá trình này vẫn
còn đang tiếp tục. Ta có thể hiểu: Hiện đại hoá là quá trình chống lại sự tụt
hậu củạ sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra trên
thế giới. Nh vậy, xét về mặt lịch sử quá trình công nghiệp hoá diễn ra trớc quá
12
trình hiện đại hoá. Kinh nghiệm của cuộc đổi mới đất nớc theo định hớng
XHCN ở nớc ta cho thấy rằng: "công nghiệp hoá nhất thiết phải gắn liền với
hiện đại hoá ".Tại hội nghị Trung ơng khoá VII (Tháng7/1994) và khoá
VIII(Tháng 6/1995) Đảng ta đã khẳng định: "Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ và phơng pháp tiên
tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của cồng nghiệp và tiến bộ khoa học - công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao "(Văn kiện hội nghị lần thứ 7 Ban
chấp hành Trung Ương khoá VIII ).
Với quan niệm này, về cơ bản đã phản ánh đợc phạm vi rộng của quá
trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, chỉ ra đợc cái cốt lõi của nó là cải biến
lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng lao động tiên tiến, hiện đại
để đạt đợc năng suất lao động cao, gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, xác
định rõ vai trò của công nghiệp, của khoa học - công nghệ trong sự nghiệp công
nghiệp hoá. Nh vậy về cơ bản công nghiệp hoá theo định hớng XHCN: "là một
cuộc cách mạng sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội."
1.2 Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là quá trình tất yếu khách quan
Ngay từ những năm 60, khi bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nớc,
Đảng và nhà nớc ta đã nhận rõ tính quy luật và vai trò Công nghiệp hoá - Hiện đại
hoá trong tiến hành vận động, phát triển của các nớc trên thế giới nói chung,Việt
Nam nói riêng và xác định: "Công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm thời kì quá
độ lên CNXH". Với đờng lối công nghiệp hoá XHCN chủ trơng phát triển công
nghiệp nặng mà trọng tâm là ngành cơ khí chế tạo đã dẫn đến những sai lầm cơ
bản về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Trong suốt hơn một phần t thế kỉ, chúng ta đã
đặt công nghiệp hoá XHCN ở vị trí đối lập hoàn toàn với "công nghiệp hoá
TBCN", coi việc phát triển công nghiệp là giải pháp đúng đắn để xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho CNXH mà "quên" mất vai trò của nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ trong nền kinh tế quốc dân. Chúng ta chỉ đơn giản coi công nghiệp
hoá là "Một quá trình xây dựng nền sản xuất đợc cơ khí hóa trong tất cả các ngành
kinh tế quốc dân ". Quan niệm này bắt nguồn từ nhận thức giáo điều, máy móc
của Đảng và nhà nớc ta về mô hình công nghiệp hoá XHCN của Liên Xô mà
không xuất phát từ thực trạng kinh tế xã hội của đất nớc cũng nh bối cảnh quốc tế
13
lúc bấy giờ. Trong những năm đầu tiến hành công nghiệp hoá đất nớc, tuy nền
công nghiệp của nớc ta đã đợc đầu t khá lớn nhng với quan niệm nh vậy về công
nghiệp hoá đã dẫn đến hiệu quả của quá trình công nghiệp hoá rất thấp ,thậm chí
còn kéo theo cả nông nghiệp và công nghiệp nhẹ cũng rơi vào tình trạng đình trệ
nghiêm trọng. Nhiều nhà máy, xí nghiệp quốc dân làm ăn thua lỗ kéo dài, tỷ trọng
cuả ngành công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân không đáng kể, nợ nớc
ngoài chồng chất, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Nghiêm trọng
hơn, nền kinh tế lâm vào tình trạng thiếu hụt lớn, mất cân đối một cách căn bản,
không có tích luỹ và rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế -xã hội kéo dài. Sự
phát triển kinh tế chỉ chú trọng vào chiều rộng đã không tạo ra đợc những yếu tố
cần thiết để phát triển theo chiều sâu, tính năng động và sáng tạo của cá nhân cũng
nh tập thể bị kìm hãm và không có cơ hội đợc thể hiện và điều tất yếu là chúng ta
phải trả một giá quá đắt cho đờng lối công nghiệp hoá XHCN theo kiểu đó .
Nhận thức đợc hậu quả đó, Đảng và nhà nớc ta đã kịp thời đa ra chiến lợc
công nghiệp hoá mới phù hợp với hoàn cảnh đất nớc. Thế nhng khi loại bỏ đờng
lối "công nghiệp hoáXHCN" theo lối cũ, ngời ta bỏ luôn cả công nghiệp hoá chỉ
nhắc đến "phát triển ", "tăng trởng", "cất cánh " chứ không đề cập tới công
nghiệp hoá nữa. Nhng thử hỏi những khái niệm đó đặt trong điều kiện cụ thể
của nớc ta hiện nay sẽ là gì nếu không phải chính là công nghiệp hoá. Việc
chúng ta từ bỏ một quan điểm sai lầm về công nghiệp hoá và cách thức tiến
hành công nghiệp hoá theo lối chủ quan duy ý chí, kém hiệu quả hoàn toàn
không có ý nghĩa là phủ nhận tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá.
Mọi lý thuyết về phát triển trên thế giới hiện thời đều không bỏ qua một trong
những nội dung chủ yếu không thể thiếu của nó là công nghiệp hoá. Đảng và
nhà nớc ta xác định: "Xây dựng đất nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần
cao, an ninh quốc phòng vững chắc, dân giàu nớc mạnh, xã hộ công bằng, dân
chủ, văn minh. Vì vậy đối với một nớc nghèo nh Việt Nam, không còn con đ-
ờng phát triển nào khác ngoài con đờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngày
nay trên thế giới, công nghiệp hoá vẫn đợc coi là phơng hớng chủ đạo, là con đ-
ờng tất yếu phải trải qua của các nớc đang phát triển. ở nớc ta khi những t tởng
cơ bản trong học thuyết của CacMác về hình thái kinh tế-xã hội đợc nhận thức
lại một cách sâu sắc với t cách là cơ sở lý luận cho công cuộc đổi mới đất nớc.
Công nghiệp hoá đợc xem là một quá trình thực hiện chiến lợc phát triển kinh
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét