Chương I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ THÀNH NGỮ VÀ HÌNH ẢNH BIỂU TRƯNG
CỦA THÀNH NGỮ
1.1. Thành ngữ
Thành ngữ là một bộ phận quan trọng trong kho tàng từ vựng của một ngôn ngữ. Thành
ngữ hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của tiếng nói dân tộc. Cùng với từ, nó
phục vụ rộng rãi việc giao tiếp chung một cách phong phú, đa dạng.
Theo định nghĩa của tác giả Hoàng Văn Hành thì: “Thành ngữ là một tổ hợp cố định, bền
vững về hình thái – cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về ý nghĩa, được sử dụng rộng rãi trong
giao tiếp hằng ngày, đặc biệt trong khẩu ngữ” (Thành ngữ học Tiếng Việt). Thành ngữ
bám sát tâm tư và tư duy cũng như hoàn cảnh lịch sử, địa lý các dân tộc nên cùng một câu
mô tả hình thức sản xuất nhưng khác nhau vì rẫy khác, nội dung lại phụ thuộc vào từng
loại canh tác nương rẫy khác nhau, mô tả nam nữ lại phụ thuộc vào nội dung và biểu hiện
của chế độ phụ hệ hay mẫu hệ, do đó người đọc muốn hiểu rõ ý tứ của một câu tục ngữ,
buộc phải hiểu dân tộc đó.Tuy nhiên trong thành ngữ, tục ngữ Thái, Mường, Dao có
nhiều câu giống nhau ở những nhận xét, đánh giá về các quy luật, hiện tượng thiên nhiên,
rừng núi.
Thành ngữ có tính đa nghĩa, trong đó nghĩa bóng mang những hình ảnh biểu trưng có tầm
quan trọn hơn cả. Nghĩa này không chỉ có tính khái quát, tượng trưng cho toàn bộ tổ hợp
nhưng lại không phải là nghĩa của các thành tố cộng lại. Hầu hết những dẩn tộc có tiếng
nói của riêng mình cũng có những thành ngữ để làm bóng bẩy thêm về ý nghĩa trong câu
nói.
1.2. Hình ảnh biểu trưng của thành ngữ.
Trong cách nhìn của văn hóa học, ngôn ngữ là phương tiện chuyển tải và lưu giữ những di
sản của văn hóa dân tộc. Và trong đó có thể kể đến vốn thành ngữ là một kho báu lưu giữ
những “trầm tích văn hóa” (Hoàng Văn Hành) đặc sắc của văn hóa dân tộc. Ở đây, những
nét, những dấu ấn cũng là những giá trị về văn hóa của dân tộc được lưu giữ ở thành ngữ
không phải bao giờ cũng hiển minh, dễ thấy, mà thường tàng ẩn kín, bị bao phủ bởi “lớp
bụi thời gian”. Trong đó thành ngữ là loại định danh đơn vị bậc hai, nghĩa là nội dung của
thành ngữ không nhắc đến trong nghĩa đen của các từ ngữ, mà gợi ý điều gì đó suy ra từ
chúng. Đó là bóng bẩy hay ý nghĩa biểu trưng được hình thành nhờ quá trình biểu trưng
hóa.
Có hai loại biểu trưng hóa:
- Biểu trưng hóa dựa vào quan hệ tương thích giữa âm và nghĩa là giá trị biểu trưng hóa
ngữ âm.
- Biểu trưng hóa dựa vào quan hệ tương đồng và tương cận trong quá trình liên hội ngữ
nghĩa gọi là giá trị biểu trưng hóa ngữ nghĩa. Hình thái liên hội ngữ nghĩa theo quan hệ
tương đồng là so sánh. Và nghĩa của thành ngữ tiếng Việt thường là kết quả hai hình thái
biểu trưng hóa: hình thái tỉ dụ (so sánh), hình thái ẩn dụ (so sánh ngắn).
Chương II: KHÁI QUÁT VỀ CÁC DÂN TỘC VÀ THÀNH NGỮ DÂN TỘC
2.1. Dân tộc Việt và thành ngữ tiếng Việt
Người Việt là một dân tộc có nguồn gốc tại miền bắc Việt Nam. Đây là dân tộc chính,
chiếm khoảng gần 90% dân số Việt Nam và được chính thức gọi là dân tộc Kinh để phân
biệt với những dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngôn ngữ chính sử dụng là tiếng Việt. Tổ
tiên người Việt từ rất xa xưa đã định cư chắc chắn ở Bắc bộ và bắc Trung bộ. Trong suốt
tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, người Việt luôn là trung tâm thu hút và đoàn kết
các dân tộc anh em xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nông nghiệp lúa nước đã được hình
thành và phát triển ở người Việt từ rất sớm. Trải qua bao đời cày cấy, ông cha ta đã tổng
kết kinh nghiệm làm ruộng rất sâu sắc: "Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Chăn
nuôi lợn, gia súc, gia cầm, thả cá cũng rất phát triển. Người Việt nổi tiếng "có hoa tay"
về nghề thủ công nghiệp, phát triển bách nghệ - trăm nghề mà nghề nào dường như cũng
đạt đến đỉnh cao của sự khéo léo tài hoa. Không ít làng thủ công đã tách khỏi nông nghiệp.
Cơm tẻ, nước chè" là đồ ăn, thức uống cơ bản hàng ngày của người Việt. Về mặc, xưa kia,
đàn ông thường mặc quần chân què, áo cánh nâu (Bắc bộ), màu đen (Nam bộ), đi chân đất;
ngày lễ tết mặc quần trắng, áo chùng lương đen, đội khăn xếp, đi guốc mộc. Ðàn bà mặc
váy đen, yếm, áo cánh nâu, chít khăn mỏ quạ đen (Bắc bộ). Phụ nữ ngày lễ hội hè mặc áo
dài. Mùa đông, cả nam và nữ thường mặc thêm áo kép bông. Người Việt thường ở nhà trệt.
Trong khuôn viên thường được bố trí liên hoàn nhà - sân - vườn - ao. Ngôi nhà chính
thường có kết cấu ba gian hoặc năm gian và gian giữa là gia trang trọng nhất, đặt bàn thời
gia tiên. Ðại bộ phận người Việt sinh sống thành từng làng, dăm ba làng họp lại thành một
xã. Gia đình của người Việt hầu hết và những gia đình nhỏ gồm 2 thế hệ theo chế độ phụ
quyền nhưng phụ nữ vẫn giữ vai trò quan trọng, thường là người quản lý kinh tế trong gia
đình.
Văn học dân gian với nhiều thể loại phong phú: truyện cổ tích, ca dao, dân ca, tục ngữ,
thành ngữ phản ánh toàn bộ mọi mặt cuộc sống của dân tộc. Văn học dân gian góp phần
to lớn vào việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, thành ngữ tiếng Việt nằm trong
không gian chung của văn hóa, cũng phản ánh một phần không chỉ những nếp sinh hoạt
của người Việt, mà qua đó còn thể hiện những nét đẹp trong văn hóa. Tiếng Việt là một
ngôn ngữ lớn so với các ngôn ngữ dân tộc ít người. Không chỉ vốn từ vựng phong phú mà
còn có sự đa dạng trong cách thể hiện, ngữ pháp chặt chẽ logic trong cách trình bày.
Thành ngữ cũng là một sản phẩm chứa đựng trong đó cả một nền văn hóa, lịch sử xã hội
của mỗi dân tộc. Nếu đặt lên bàn cân so sánh thì đó quả là khập khiễng thế nhưng nhìn ở
góc độ nào đó thì tiếng Việt hay ngôn ngữ của một dân tộc ít người nào dù nhỏ bé đến đâu
cũng có chỗ đứng ngang nhau xét về mặt đóng góp cho sự đa dạng chung của ngôn ngữ
một đất nước nói riêng và của kho thành ngữ nói riêng.
2. 2. Dân tộc Tày và thành ngữ tiếng Tày
Dân tộc Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước
Công nguyên. Người Tày sinh sống ở vùng núi thấp miền núi và vùng trung du Bắc Bộ,
nhưng đông nhất là ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang,
Quảng Ninh. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.
Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm
canh và biết áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai,
làm cọn lấy nước tưới ruộng. Ngoài lúa nước, người Tày còn trồng lúa nương, hoa màu,
cây ăn quả, cây công nghiệp. Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng
cách thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý;
nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Bộ y phục cổ
truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không có thêu thùa
trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài.
Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao búi
tóc, quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm
Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hoà Bình). Tục lệ cưới xin, ma chay thường tổ chức
linh đình, khá tốn kém. Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên, ngoài ra còn thờ Thổ Công,
Vua bếp, Bà Mụ. Đó là những nét văn hóa từ bao đời nay của người Tày nó ăn sâu vào nếp
nghĩ và sinh hoạt của họ. Bên cạnh đó, ngôn ngữ Tày cũng chịu ảnh hưởng của các dân tộc
lân cận, họ có ngôn ngữ và chữ viết riêng cho mình.
Chữ Nôm Tày xây dựng trên mẫu tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời
khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng Dân tộc Tày cũng
như bao dân tộc trong cộng đồng Việt, họ có văn hóa, có ngôn ngữ, tín ngưỡng riêng của
mình. Đặc biệt thành ngữ của Tày. Thành ngữ của dân tộc Tày khá đa dạng, những câu nói
rất gần gũi xuất phát từ thế giới xung quanh họ, từ con chó, con mèo.
Các đức tính gắn liền với lao động như làm ăn thật thà, tiết kiệm, lo xa. Phương pháp tư
duy khách quan, xử lí phù hợp với hoàn cảnh khách quan, nhìn sự vật trong sự phát triển
của nó đều in dấu trong thành ngữ người Việt cũng như các dân tộc thiểu số anh em. Giao
tiếp, cách ăn ở, nói năng, đi lại cũng là một yêu cầu lớn của nếp sống văn hoá mà người
Việt Nam, dù đa số hay thiểu số đều quan tâm rèn luyện. Nói là ngôn ngữ, là cái vỏ của tư
duy, cho nên đã nói thì phải suy nghĩ, nói thường đi đôi với nghĩ, biểu hiện so sánh, ví von
rất cụ thể, thành ngữ của Tày còn thể hiện ở bản chất lao động cần cù; về đạo đức hướng
thiện; về giao tiếp, nếp sống, dựa trên tinh thần đoàn kết, hoà đồng.
Trong các nội dung về nhân cách và rèn luyện nhân cách, thành ngữ của dân tộc Việt cũng
như các dân tộc thiểu số anh em trong đó có dân tộc Tày nổi lên tinh thần hiếu học, với
những quan điểm về học tập mọi nơi, mọi lúc, việc gì cũng cần phải học, học suốt đời, học
đến lúc chết, trên hai mặt cơ bản là trí (học “khôn”) và đức (học “nết”) để lao động và sống
trong quan hệ với bản thân, gia đình và xã hội.
Cũng như các thành ngữ của người Việt và các dân tộc thiểu số khác, thành ngữ Tày thể
hiện mối quan hệ với thiên nhiên, quan hệ xã hội “đại đồng”. Như vậy, thành ngữ Tày
cũng như thành ngữ Việt đều nói đến những khía cạnh của đời sống con người, về thiên
nhiên, nòi giống, về gia đình và những sinh hoạt thường nhật của họ. Tuy nhiên, cách thể
hiện trong lời nói, qua ngôn ngữ có phần khác biệt so với thành ngữ tiếng Việt, đặc biệt ở
hình tượng biểu trưng.
2.3. Dân tộc Chăm và thành ngữ tiếng Chăm
Dân tộc Chăm cư trú chủ yếu ở tỉnh Ninh Thuận và một phần nhỏ ở An Giang, Tây Ninh,
Ðồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh, tây nam Bình Thuận và tây bắc Phú Yên Người Chăm
chủ yếu theo đạo Hồi (nhóm Bà Ni và nhóm Ixlam) và đạo Bà La Môn (chiếm 3/5 dân số).
Duy trì chế độ mẫu hệ, con gái theo họ mẹ. Nhà gái cưới chồng cho con, con trai ở rể. Con
gái được thừa kế tài sản, con gái út phải nuôi dưỡng bố mẹ. Các lễ hội dân gian truyền
thống tiêu biểu của người Chăm đó là: lễ hội Katê (tưởng niệm đấng cha - lễ hội lớn nhất,
vui nhất của người Chăm theo đạo Bà La Môn) ; lễ hội Ramưwan - lễ hội điển hình nhất về
lễ nghi ở thánh đường của người Chăm theo đạo Hồi; lễ hội Tháp Bà (tưởng niệm nữ thần
Mẹ Xứ sở); lễ mừng sức khỏe, lễ múa tống ôn đầu năm, lễ cưới Trang phục Chăm, vì có
nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Lúa là cây
lương thực chính. Nghề phụ là buôn bán và dệt vải. Tiếng Chăm là ngôn ngữ của người
Chăm ở Đông Nam Á, trước đây là ngôn ngữ của Vương quốc Chăm Pa ở miền Trung
Việt Nam. Đây là một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Polynesia của hệ ngôn ngữ
Nam Đảo.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của nền văn hóa Việt Nam đa dân tộc, văn hóa của
người Chăm chiếm một vị trí đáng chú ý. Bởi vì văn hóa của người Chăm không những chỉ
được coi như một biểu hiện độc đáo về tính đa dạng của văn hóa Việt Nam, mà còn góp
phần tạo nên một sắc thái riêng trong văn hóa của người Việt và một vài tộc người khác
nữa. Nhiều tư liệu quí về văn hóa của người Chăm đã được công bố và đánh giá, trong đó
có những tư liệu về văn học, chủ yếu là văn học dân gian. Sự phong phú về thể loại
folklore ngôn từ như sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ, câu đố… .Giữa tục ngữ,
thành ngữ, câu đố của người Chăm và người Việt vừa có những nét tương đồng và có
những nét khác biệt, và do đó có thể gợi ý một sự nghiên cứu so sánh văn hóa dân gian hai
dân tộc, trên các phương diện lối sống, lối nghĩ và lối nói.
Theo Inrasara nhà nghiên cứu văn hóa Chăm thì thành ngữ là “đơn vị giáp ranh” giữa từ và
câu nhưng ranh giới này chưa được phân định một cách dứt khoát. Ông dựa vào hai đặc
tính chính để xác định thành ngữ tiếng Chăm là:
1. Về hình thức: nghĩa là mặt cơ cấu hình thái, thành ngữ Chăm thuộc loại cụm từ cố định:
Rwai đơm o pah (Ruồi bu không đuổi)
Kaik lithun kaik liya (Cắn hành ngậm gừng)
Nhưng đôi lúc nó cũng có những biến thái nhất định
Tuh ia akauk ada (Nước đổ dầu vịt)
Tuh ia hala nhiơm bwa (Nước đổ lá môn)
2. Về ngữ nghĩa: đại đa số thành ngữ tiếng Chăm thường mang nghĩa bóng:
Bbơng glai mưtah (ăn rừng sống –ngoại tình)
Papauh tapai ka urang pok (xua thỏ cho người ta bắt- khờ khạo)
Tuy nhiên không vì thế mà nghĩa đen, nghĩa thực bị mờ hẳn đi
Yamưn yơu saradang (Ngọt như đường)
Rilauw taprah (Máu đổ thịt rơi)
Từ những đặc tính trên ,Inrasara không kể vào vốn thành ngữ tiếng Chăm những đặc ngữ
(thường bị nhận nhầm là thành ngữ) như:
Haluh ilimo (suốt kiến thức –thông thái)
Tamư kađaung (vào thừa –thụ thai)
Hay những cụm từ mà kết cấu lỏng lẻo như:
Bơng sa ia ta mưh (Quê hương đất nước)
Nha saung gơp (Dính với nhau- trai gái)
Nói chung chúng ta thường gặp hơn cả các trường hợp một thành ngữ tiếng Chăm được
cấu tạo bằng:
- Ba từ rời: Bbơng bu pađiak (ăn cháo nóng- cơ hội): Yut klauh hatai( bạn nối khố)
- Bốn từ đơn hay hai từ ghép liên hợp
Ba tamư labang mưtai (Mang xuống tuyền đài)
mưđa akauk laman takai (Trẻ người non dạ)
- Năm từ trở lên
O khin gauk bilơu takai (Không dám đụng lông chân)
Arauk crah canar di/ngauk saban (Cóc xếp thành bệ trên cao)
- Láy ghép bằng phương thức láy của thành ngữ (không giống với láy tư của từ)
Bbơng klaik bbơng savah (Ăn bớc ăn hốt)
Mưtưh mưin mưtưh biak (Nửa đùa nửa thật)
Ngoài ra, Inrasara còn xếp vào thành ngữ Chăm các cấu trúc so sánh, có so sánh đủ cả hai
vế:
Gila yơu kabaw (Ngu như trâu)
Limưk yơu Katwơc bhik (Béo như tượng Phật)
Lẫn so sánh giản lược
Yơu mưyaw bboh takuh (Như mèo thấy chuột)
Yơu hanrwai yơu taba (Như điên như dại)
Chương III. ĐỐI CHIẾU NHỮNG HÌNH ẢNH BIỂU TRƯNG CỦA THÀNH NGỮ
TIẾNG VIỆT VÀ THÀNH NGỮ TIẾNG TÀY, TIẾNG CHĂM
Trong sự giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung mô tả và đối chiều về hình ảnh biểu
trưng của thành ngữ tiếng Việt và thành ngữ tiếng Chăm, tiếng Tày trên các bình diện:
Động vật, thực vật, lao động sản xuất, tình yêu, hôn nhân, nguồn gốc lịch sử dân tộc, văn
hóa đạo đức.
3.1. Hình ảnh biểu trưng về động vật trong thành ngữ tiếng Việt đối chiếu với thành
ngữ dân tộc.
Tiếng Việt có kho thành ngữ đồ sộ về số lượng và đa dạng trong cách thể hiện hơn so với
thành ngữ dân tộc Chăm hay Tày. Nhưng điều được ghi nhận là ở thành ngữ Chăm hay
Tày sự thể hiện của họ rất độc đáo, mộc mạc như chính bản sắc dân tộc họ. Có những cách
ví von so sánh rất sáng tạo đặc sắc đôi khi hấp dẫn hơn so với thành ngữ tiếng Việt. Dù là
tục ngữ hay ca dao thì hình tượng biểu trưng trong đó là rất quan trọng, với những nhận
định ngắn gọn được thể hiện ở vài câu chữ thì dùng hình ảnh biểu trưng cho điểu muốn nói
là cách nhanh nhất và hiệu quả nhất truyền đạt ý nghĩa trọn vẹn nhất. Do vậy, thành ngữ đã
sử dụng rất nhiều hình ảnh biểu trưng cho mình, từ những hình ảnh quen thuộc giản dị đến
những hình tượng kiêu sa cao quí. Tất cả đều hòa vào dòng điệu của những cách so sánh,
ví von nhẹ nhàng mà sâu lắng.
Nét tương đồng thấy rõ nhất giữa viêc dùng thành ngữ tiếng Việt với tiếng Chăm và tiếng
Tày là ở chỗ hình ảnh được sử dụng ở đây gần như là giống nhau. Nhất là hình ảnh lấy từ
cuộc sống hàng ngày là những con vật nuôi gắn bó với cuộc sống của họ từ chó, mèo,
chuột đến những con bò con trâu mà hàng ngày theo họ ra đồng…những con vật ấy được
đưa vào thành ngữ rất giản dị và người ta đã võ đoán cho nó những đặc điểm tốt hay xấu.
Mỗi một dân tộc thì có cách nhìn nhận vấn đề khác nhau, cách tri nhận khác nhau một
phần do văn hóa lối sống của chính họ. Với người kinh thì coi khinh chó hay bò, thế nhưng
với người Chăm hay người Tày thì lại khác họ trân trọng chúng và với họ luôn có những
cái nhìn trìu mến đối với chúng. Điều này được thể hiện trong thành ngữ họ thì trâu hay bò
đều có những đặc tính tốt đẹp:
Ví dụ thành ngữ Tày có câu:
Vàu lảm lảng, giáng khoen kho
Trâu buộc trong chuồng, gươm treo trên nóc
Thành ngữ Chăm:
Anưk tacauw limauw kabaw
Con cháu trâu bò =con cháu hậu sinh
Hay :
Một bên trâu một bên bò= kẻ chín lạng người nửa cân
Để xem xét cụ thể hơn ta sẽ đi sâu vào từng đặc điểm của thành ngữ mỗi dân tộc trong sự
đối chiếu với thành ngữ tiếng việt.
3.1.1 Đối chiếu hình ảnh biểu trưng trong thành ngữ Việt – Chăm.
Tiếng Chăm có sự gần gũi với tiếng Việt hơn tiếng Tày, có thể là do nguyên nhân về lịch
sử nên sự giao thoa mạnh hơn. Biểu hiện rõ nhất là trong thành ngữ tiếng Chăm có sự
tương đồng rất lớn với tiếng Việt, có những câu thành ngữ gần như giống hoàn toàn. Xét
về mặt biểu trưng với những hình ảnh động vật được dùng thì hầu như là trùng lặp.
Ví dụ:
- Akhar yơu mưnuk prah
Chữ như gà bươi
- Ia mưta biya
Nước mắt cá sấu
- Takuh laik tamư khang brah
Chuột sa chĩnh gạo
- Tuh ia akauk ada
Nước đổ đầu vịt.
- Nhal yơu litah.
Dai như đỉa.
- Yơu asơu saung mưyaw.
Như chó với mèo
Ngoài những câu thành ngữ giống nhau hoàn toàn thì thành ngữ Chăm cũng có những sự
khác biệt rất đặc sắc. Một bộ phận nào đó của thành ngữ của hai ngôn ngữ này có sự giao
thoa chưa trọn vẹn dẫn đến việc thành ngữ đó về cơ bản giống nhau về ý nghĩa, hình thức
chỉ duy nhất về hình ảnh động vật được sử dụng là khác nhau, hoặc nếu dùng hình ảnh
giống nhau thì cách lí giải cũng có sự khác biệt.
Thành ngữ Việt Thành ngữ Chăm
Chửi chó mắng mèo Đánh chó đánh mèo
Ataung asơu rơw mưnuk
Đánh chó đuổi gà.
Ông nói gà bà nói vịt. Ong đom limauw, muk lac kabaw
Ông nói bò , bà nói trâu.
Mạnh như hổ Khơng yơu kabaw
Mạnh như trâu.
Sở dĩ người Chăm thường sử dụng hình ảnh con trâu trong thành ngữ của mình là vì cuộc
sống của họ coi trọng nhất là con trâu, đời sống nông nghiệp buộc họ gắn liền với con trâu
cái cày.
Xét về hình ảnh động vật được dùng trong thành ngữ thì thành ngữ tiếng Việt phong phú
đa dạng hơn, các con vật được sử dụng nhiều hơn. Ở thành ngữ Chăm chỉ sử dụng một vài
hình ảnh con vật thân thuộc nhất với đời sống người Chăm như con trâu con bò, hổ, chuột,
rắn trong khi thành ngữ tiếng Việt có đưa vào những con cá rô, con cáy, vọ, rươi,
phượng…Tuy nhiên thành ngữ Chăm có nét đặc sắc ở chỗ họ dùng những hình ảnh con vật
mà người Việt không biết được những con ruồng cốt, hay dùng những hình ảnh lạ như con
thằn lằn,dơi, bồ câu, trứng gà so…
Sự khác biệt giữa thành ngữ Chăm và Việt được thể hiện rõ nét ở cách dùng hình ảnh con
vật khác nhau, ở cách diễn đạt khác nhau của cùng một vấn đề. Cụ thể:
Thành ngữ Việt Thành ngữ Chăm
Chó cắn áo rách Kathaut ula laik, mưđa kalaut tahla gauk
mưh
Nghèo rắn lại cắn thêm, giàu bóc vỏ cây
được vàng
Khổ như thân trâu ngựa Kho yơu asơu mưtai
Khổ như chó chết.
Làm trâu làm ngựa = Ngap asơu ngap
mưyaw(làm dơi làm chuột)
Chim sổ lồng Ciim klah di habai, tapai klah d icing
Chim sổ giỏ, thỏ sổ chuồng.
Lúng túng như gà mắc tóc Ciim klah di habai, nai klah di cei.
Chim thoát khỏi giỏ, cô thoát khỏi chú.
Thơk dơw yơu asơu gauk raywak
Rối bong như chó vướng lưới.
Lẩn quẩn như gà mắc đẻ = yơu mưnuk
pajwak thruh (lẩn quẩn như gà dọn ổ)
Ngàn cân treo sợi tóc Jamauk đơm take kabaw(muỗi đậu sừng
trâu)
Hổ thả về rừng Yơu urang tiap kabaw palau hamu garaung
= như trâu thả về rừng.
Mật ngọt chết ruồi Rwai đơm ò pah = ruồi bu không đuổi (khờ
khạo)
Nhát như thỏ đế Hwơc chai ciim
Nhát như chim
Câu thành ngữ chỉ bụng dạ xấu xa của kẻ hiểm độc, người Viêt dùng hình ảnh “sói”,
“lang” còn người Chăm dùng hình ảnh “rắn hổ mang”
- Tung tian ula paravak
Bụng dạ rắn hổ mang.
Trong thành ngữ Chăm hình ảnh con vật được ví von rất ngô ngê, giản dị :
- Nau yơu asơu pâch akauk
Đi như con chó nứt đầu(đi như con chó điên)
- Thun katrow cauh bauh
Năm bồ câu mổ trứng (mất mùa)
Thành ngữ Việt dùng hình ảnh nọc rắn để chỉ người thâm độc trong khi người Chăm dùng
hình ảnh cụ thể rắn hổ mang “nọc rắn miệng rắn”.
Những hình ảnh con vật trong thành ngữ Việt mà thành ngữ Chăm không dùng tới như:
Bán bò tậu ễnh ương
Bỏ con săn sắt bắt con cá rô
Ăn ốc nói mò
Những hình ảnh ốc, săn sắt hay ễnh ương chỉ có thành ngữ Việt dùng đối với tiếng Chăm
thì hoàn toàn xa lạ và ngược lai.
3.1.2. Đối chiếu hình ảnh biểu trưng trong thành ngữ Việt – Tày
Tày là dân tộc ở miền núi phía bắc cho nên những hình ảnh động vật biểu trưng trong
thành ngữ của dân tộc mình có những độc đáo khác hẳn so với thành ngữ Việt. Những con
chim con thú miền núi cao sẽ không thể có được trong thành ngữ Việt và ngược lại.
Nét tương đồng giữa thành ngữ Việt và Tày tuy không nhiều như Chăm nhưng không phải
là không có. Mặc dù sự giao thoa không đáng kể nhưng cũng có những thành ngữ mà cả
hai dân tộc đều sử dụng như nhau và giống nhau hoàn toàn.
Ví dụ như:
- Băng ma cắp mèo.
Như chó với mèo.
- Bặng vỏ mẻ đoi (sự xa cách của đôi trẻ
yêu nhau)
Như vợ chồng Ngâu.
- Ma xe phải khát.
Chó cắn giẻ rách.
- Pioi sưa mứa pù.
Thả hổ về rừng.
- Bấu thua bấu thắng
Không đầu không đuôi.
Sự khác biệt giữa thành ngữ Việt và Tày được thể hiện khá rõ rêt. Cùng một câu có ý nghĩa
như nhau nhưng cách thể hiện của người Tày khác xa đối với người Việt. Điều này thể
hiện sự khác biệt về tư duy lối tri nhận của mỗi dân tộc, ngoài nguyên nhân về lối sống,
môi trường cư trú còn kể đến truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc dẫn đến sự khác biệt
này. Cụ thể như sau:
Thành ngữ Việt Thành ngữ Tày
Đếm ngược đếm xuôi Án mò án mạ
Đếm bò đếm ngựa(người ta muốn làm gì thì
làm, bất chấp việc làm của người khác)
Dở dở ương ương Bấu súc bấu đíp (không chín không sống)
Bí rì rì Bí xu khiêm (bí như lỗ trôn kim khâu)
Thẳng cánh cò bay Ca bân tốc, nốc bân thai (quạ bay qua sẽ gẫy
cánh rơi xuống, chim bay qua sẽ kiệt sức
lộn cổ mà chết)
Ham sống sợ chết Gàm cón sửa dằng, gàm lăng sủa bắc
(bước trước sợ hổ gầm, bước sau sợ hổ vồ)
Lo bò trắng răng Giau cooc mò vần khỉa(lo sưng bò mắc sâu
khoàng)
Cổ cao ba ngấn, thắt đáy lưng ong Gò tặng rặng kíu (người con gái đẹp có
duyên)
Ăn như rồng cuốn, làm như cà cuống lội
sông
Hất bặng hân, kín bặng sưa (làm việc thì
như con cáo mà an thì như con hổ)
Rùa rụt cổ Kho bặng phiẳm (co lại như con phiăm)
Bình chân như vại Ma háu bố nhò thua (chó sủa không nhấc
đầu)
Nổi gai ốc Năng thua thỉu (da đầu xách lên)
Đàn gảy tai trâu Pấu pí xu vài( thổi kèn vào tai trâu)
Ông nói gà bà nói vịt Phuối gằn nà, lòa kha cáy(nói chuyện bên
bờ ruộng lại nói chuyện quật chân gà)
Trứng khôn hơn vịt Pi khen cải quá pi khai (bắp tay lớn hơn bắp
chân)
Châu chấu đá xe Tảm tác đè gò pất (bọng tre đè cổ vịt)
Đỉa phải vôi Lình pét khỉ cáy
Khỉ dây cứt gà
Nhìn chung thành ngữ Tày và thành ngữ Việt dù tỉ lệ giống nhau hoàn toàn trong việc dùng
hình ảnh biểu trưng là động vật thế nhưng tỉ lệ thành ngữ giống hình thúc đến ý nghĩa là
đáng kể. Điểm khác biệt là thành ngữ Tày đã sáng tạo ra nhiều hình thúc mới vỡi những
hình ảnh ví von độc đáo. Ở mỗi câu thành ngữ dù cùng dùng hình ảnh những con vật gắn
liền với đời sống của dân tộc mình nhưng nét khác biệt là ở chỗ người Tày cũng dùng hình
ảnh đó nhưng cách so sánh lại lạ lẫm. Chẳng hạn trong câu”chó sủa không nhấc đầu” để
nói về việc “bình chân như vại”, đó chính là nét khác lạ, hay như câu “quạ bay qua sẽ gẫy
cánh rơi xuống, chim bay qua sẽ kiệt sức lộn cổ mà chết” để nói sự bao la rộng lớn của
cánh đồng. Trong thành ngữ Tày thì việc dùng nhiều hình ảnh con vật chỉ ở miền núi cũng
là điểm khác so với thành ngữ Việt và ngược lại. Người Việt sẽ không thể biết đến con
Phiăm, hay con rúi trong câu thành ngữ “đeng đăng ổn (đỏ mũi như con rúi).Và ngược lại
người Tày sẽ khó quen thuộc với con loan con phượng, con cà con kê Ở mỗi một vùng
miền thì có một đặc trưng riêng và điều này thấm vào lời ăn tiếng nói hàng ngày, thấm vào
lối sống và đời sống văn hóa của họ.
Thành ngữ Tày còn có những nét khác biệt hoàn toàn so với thành ngữ VIệt có những câu
thành ngữ rất độc đáo. Ví dụ như:
-Đi théc
Mật vỡ (giận dữ cao độ)
-Đăm băng bẻ bót
Tối mù mịt như con dê bị mù ( dốt nát thiếu tri thức).
- Liêng nốc soa cáy thướn
Đem trứng chim trĩ, gà lôi về ấp (công việc vô ích)
- Lình ké tốc đán
Khỉ già rơi vách đá ( hiện tượng ngẫu nhiên bởi chủ quan, sơ suất)
3. 2. Hình ảnh biểu trưng về thực vật trong thành ngữ tiếng Việt đối chiếu với thành
ngữ dân tộc.
Việc sử dụng thực vật làm chất liệu ngôn từ trong các loại hình nghệ thuật như hội họa,
điêu khắc, âm nhạc cho đến văn thơ…. Thực vật còn được con người đưa vào trong những
câu ca dao, thành ngữ và tục ngữ, nhằm bộc lộ những tâm tư tình cảm của con người, đồng
thời thể hiện nếp sống, văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc, nó tạo nên sự phong phú
và đa dạng, đa màu sắc. Trong thành ngữ tiếng Việt, tiếng Chăm và tiếng Tày cũng không
phải là ngoại lệ. thực vật sử dụng trong thành ngữ các ngôn ngữ này được xem như một
hình ảnh biểu trưng. Tuy nhiên so với thành ngữ tiếng Viêt, thì viêc sử dụng thực vật làm
hình ảnh biểu trưng trong thành ngữ tiếng Chăm và tiếng Tày là rất ít, chỉ tồn tại một số
câu, hầu như là có hình thức và nội dung giống với thành ngữ tiếng Việt.
3.2.1. Sử dụng thực vật làm hình ảnh biểu trưng trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng
Tày.
Thành ngữ tiếng Việt và tiếng Tày đều lấy những loại cây rất quen thuộc, gắn
liền với đời sống con người để đưa vào thành ngữ. Đây chủ yếu là những cây lương thực
ngắn ngày, được dùng trong bữa ăn hàng ngày của nhân dân. Điều này cũng thể hiện phần
nào tính cách hiền lành, chất phát của người nông dân Việt Nam, họ lấy những cái thực tế,
gắn bó với mình, và một cách đơn giản, họ tạo ra những câu có vần , có điệu thật mộc mạc.
Chẳng hạn, để chỉ một người hay một nhóm người làm hay hiểu một vấn đề gì
đó mà nhiều lần vẫn không hiểu, hoăc lâu hiểu, thường là việc học, thì cả thành ngữ tiếng
Việt và tiếng Tày đều có câu:
Tiếng Việt : Nước đổ lá khoai/ Nước đổ lá môn
Tiếng Tày : Phuối tông năm roảt toong. – nước đổ lá khoai
Trong nhận thức của người Việt và người Tày cũng không có gì khác về vấn đề
này. Cả hai đều sử dụng khoai làm chất liệu chủ đạo của câu nói. Khoai được sử dụng ở
đây là một hình ảnh ẩn dụ phi đối xứng, lấy khoai để ngụ ý chỉ người. Nhằm giúp cho
người nói nói một cách dễ dàng hơn mà không sợ người nghe phật ý. Bởi khi nói đến câu
này, chúng ta đều tri nhận theo cách đơn giản nhất đó là : (ngu như) nước đồ lá khoai. Có
thể nói đây là một cách nói gián tiếp.
Hay để chỉ cảm giác ngọt:
Thành ngữ Việt: Ngọt như đường
Thành ngữ Tày: - Pác van văn thương ỏi
Ngọt như mía lùi
- Van hơn thương căp ỏi
Ngọt hơn đường ăn với mía
Nghĩa của đường ở đây là chất ngọt, như đường thốt nốt, còn mía là một loại cây ăn được,
có vị ngọt, dùng để làm ra đường và mật. Ở đây người Việt đã dùng đường – một sản
phẩm lấy từ mía, sử dụng ngôn từ một cách gián tiếp.
Còn người Tày thì dùng mía một cách trực tiếp.
Như đã nói ở trên, việc sử dụng thực vật làm hình ảnh biểu trưng trong thành
ngữ tiếng Tày là rất ít, vì vậy mà không thể so sánh với nhiều thành ngữ thực vật trong
tiếng Việt được.
Ví dụ: Để chỉ một câu chuyện có đầu có đuôi thì tiếng Việt nói: Ra môn ra khoai nhưng
trong tiếng Tày không có.
Hay câu: Canh chua khế cũng chua; Ngậm hột thị; Nghèo rớt mùng tơi; Mượn
gió bẻ măng….
3.2.2. Sử dụng thực vật làm hình ảnh biểu trưng trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng
Chăm
Giống như thành ngữ tiếng Tày, thành ngữ thực vật trong tiếng Chăm cũng rất ít.
Để có một lời chức mùa màng bội thu, người Chăm sử dụng cây lúa, cây lau,
cây bầu, lá sả để tạo ra câu thành ngữ mà tiếng Việt không có như:
Juk yơu kabauw, thran yơu lamưlaw, dah dlaw yơu plơng.
(lúa) trời xanh như cây lau, đâm rễ như chum bầu, trổ cành như lá sả.
Cây lúa,lau, bầu, sả đều là ba loại cây gắn liền với cuộc sống của con người, đặc biệt là
cây lúa – thể hiện văn hóa truyền thống lúa nước của người Việt Nam.
Nói lên hoàn cảnh khổ cực, tủi nhục khi phải chịu đựng một điều gì đó thì người Chăm có
câu:
Kailk lithun kaik liya - cắn hành ngậm gừng.
Tương đương với tiếng Việt là : Ngậm đắng nuốt cay. Hành và gừng là hai loại củ khi ăn
sống rất cay, thường thì ít khi người ta ăn sống củ hành và gừng, có chăng thì cũng đã qua
sơ chế như muối. Vì nó khó ăn, hành và gừng chủ yếu được dùng làm gia vị cho bữa ăn mà
thôi. Nhưng chính việc nhờ vào vị cay của hai loại củ này mà người Chăm đã tri nhận một
cách trực tiếp, mộc mạc, không có sự gọt giũa về ngôn từ và đã đưa chúng vào thành ngữ.
Ta có thể thấy thấp thoáng vẻ ngây thơ, chân thành của con người nơi đây.
3.3. Hình ảnh biểu trưng về lao động sản xuất trong thành ngữ tiếng Việt đối chiếu
với thành ngữ dân tộc.
Như đã phân tích ở trên, thành ngữ được cấu tạo từ những cụm từ mang nghĩa cố
định, hoàn chỉnh, phản ánh các mặt của đời sống. Bên cạnh việc phản ánh các quan hệ xã
hội, những vật thể xung quanh,… thì thành ngữ với chức năng của nó đã thể hiện một cách
sâu sắc khía cạnh lao động sản xuất của con người. Con người đã sử dụng thành ngữ để
làm cho cuộc sống của mình thêm sinh động, sắc màu hơn. Bởi lẽ, thành ngữ được đúc kết
từ những kinh nghiệm cuộc sống vừa khái quát lại vừa cụ thể những sự vật, hiện tượng
trong cuộc sống, trong ứng xử, mà tiêu biểu hơn cả là trong hoạt động lao động sản xuất.
3.3.1. Mối tương quan giữa thành ngữ Tày- Việt:
Dân tộc Tày cũng giống như bao dân tộc khác, họ cũng đã tự tạo cho mình những
ngôn ngữ vừa ngắn gọn, súc tích, vừa mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Họ rút ra từ trong chính
cuộc sống những hình ảnh lao động sản xuất thân thuộc, bình dị nhưng có sức tạo hình, lôi
cuốn, hấp dẫn. Có thể nói như vậy tại vì, thành ngữ Tày đã phản ánh khá đầy đủ các khía
cạnh nhỏ thuộc lĩnh vực lao động sản xuất. Tuy nhiên, chúng ta không thể hoàn toàn phủ
nhận sự khác nhau giữa thành Tày và thành ngữ Việt. Có khi, chúng giống nhau gần như
trọn vẹn.
Để giới thiệu không gian lao động sản xuất, thành ngữ Tày nói:
- Ca bân tốc, nốc bân thai
(Quạ bay qua sẽ gãy cánh rơi xuống, chim bay qua sẽ kiệt sức lộn cổ mà chết).
- Phiêng lít phiêng lí
( Phẳng phiu thẳng tắp)
Ta có thể thấy được một không gian mênh mông, rộng lớn, bát ngát. Tương tự, thành ngữ
Việt tương ứng: “ Cò bay thẳng cánh”.
Trong lao động sản xuất, một đòi hỏi tất yếu cho mọi người đó là phải siêng năng. Vì vậy,
người Tày đã truyền với nhau:
- Đăm khảu dạu oóc
(Tối mới về nhà, vừa sáng đã ra cửa)
Tương ứng là câu thảnh ngữ Thức khuya dậy sớm của người Việt.
Nỗi lo của người nông dân cũng được thể hiện thông qua hình ảnh:
- Nả đăm thâu cáy
( Mặt đen như cái mề gà)
- Nả đăm nả mẩy
( Mặt đen như mặt cháy)
Lối so sánh vừa dung dị, bình dân vừa khác lạ, nhân nỗi lo tăng lên gấp bội phần.
Có những công việc hết sức có ý nghĩa, nhưng lại không ít công việc vô ích mà họ bắt gặp.
Họ luôn lên tiếng, luôn phản đối những hình ảnh:
- Nòn gai thả mác đứa
( Nằm ngủ há mồm, chờ sung rụng để ăn)
- Tăm bố tỏong, toong khân từng. Đăm bố biai, giai hom rửng
( Không đăm không giã bụng căng phình, không cấy không làm cỏ hưởng hương thơm
phưng phức )
Tương đương với câu Há miệng chờ sung trong tiếng Việt để phê phán, chỉ trích những
con người với những thói hư tật xấu, không lo làm ăn mà chỉ ngồi chờ đợi, ỷ lại vào người
khác, chỉ thích ngồi mát ăn bát vàng.
Bên cạnh đó, người Tày còn phê phán, chỉ trích những công việc vô ích, không phục vụ
cho nhu cầu nào của xã hội.
- Thảng rầy nắm ót cổn
( Đơm đó không bịt trôn)
- Thảng rầy piai mạy
( Đơm đó ngọn cây)
- Tháp năm tó bó
( Gánh nước về mỏ nước)
Ngoài ra, họ còn phê phán những người làm không đến nơi đến chốn, để rồi kết quả cũng
chẳng đâu vào đâu cả:
- Hất cón tả lăng
( Làm việc trước bỏ việc sau)
- Hất khoái bầu rải đây
( Làm nhanh, không được tốt mấy)
Chúng ta thường bắt gặp nhiều nhất trong thành ngữ Tày là hình ảnh con trâu. Con trâu gắn
liền trong cuộc sống của họ, giúp họ nhiều nhất trong lao động sản xuất. Thế nên, con trâu
đã đi vào thành ngữ như một sự tất yếu:
- Vài lảm lảng
( Trâu buộc trong chuồng)
- Vài nhẳm dưởc
( Trâu dẫm thừng)
Họ luôn biết được kinh nghiệm:
- Vài cải khỉ cải
( Trâu to bãi phân lớn)
Bao hình ảnh thân quen trong chính cuộc sống mà hằng ngày con người đã tiếp xúc đi vào
trong thành ngữ với bao đường nét, sắc màu. Cuộc sống lao động của con người tuy vất vả,
khổ cực nhưng cuối cùng cũng chỉ là :
- Rườn đó mở khoen pha
( Nhà nghèo nồi treo vách)
3.3.2. Mối tương quan giữa thành ngữ Chăm- Việt:
Thành ngữ Chăm cũng đã tạo dựng nhiều hình ảnh về lao động sản xuất. Trong số đó nổi
lên hình ảnh cần cù, chịu khó trong lao động của con người. Ta nhận ra chu trình khép kín
của công việc, luôn bận bịu, tất bật:
Thành ngữ Việt Thành ngữ Chăm
Đầu tắt mặt tối - O hu herai ha, o hu jala klah
( Chẳng có một ngày hở, chẳng có một bữa
rãnh)
- Akauk trun takai tagok
( Đầu xuống chân lên)
Đầu đội vai mang Akauk đwa bíra anaurg
( Đầu đội vai gánh)
Đồng tâm hiệp lực Sa tangin sa takai”
( Đồng tâm hiệp lực)
Một lòng một dạ Sa tung sa hatai”
( Một lòng một dạ)
Sự vất vả, lam lũ, cần cù, siêng năng của những con người ham mê lao động, nhiệt tình đi
tìm nguồn sống được thể hiện qua những công việc cụ thể:
- Kauh paga rơp lanaung
( Chặt cây làm sàn)
- Kwa pabbuk truk pataum
( Cào dồn vun đống)
Họ làm bất chấp mọi điều, quên đi thân xác của mình:
- Ngap bbơng hak rup
( Làm như xẻ cả thân mình)
- Ngap yơu ciim cauh
( Làm như chim mổ)
Sự lao động cực khổ giữa đất trời:
- Dan di pađiak, riak di hajan
( Phơi ngoài nắng, nấu ngoài mưa)
Rồi cuối cùng cũng mang lại cho họ những thành quả lao động cao. Họ đã tạo cho cuộc
sống mình nhiều:
- Ahar crih bauh bingi
( Bánh lạ quả ngon)
- Adauh yỏu anủk halak
( Gạo trộng như con sâu)
Bên cạnh những con người say mê trong công việc, bỏ công sức lao động của mình
để thu lại kết quả cao thì lại có những con người chỉ làm cho có làm với mọi người mà
không có kết quả gì trong lao động. Họ luôn bị xã hội và mọi người lên án, phê phán:
- Ngap pabak drei jan
( Làm cho có)
- Ngap mưin bbơng biak
( Làm chơi xơi thiệt)
- Ngap yơu urang pauh blah
( Làm như ăn cướp)
Tất yếu sẽ đến với họ là cái đói, nghèo:
- ỏk đong talang
( Đói trơ xương)
Hay:
- Asơn kaih klaih iku”
( Khố rách áo ôm)
Tóm lại, lao động sản xuất đã đi vào trong thành ngữ một cách đặc sắc như vậy đó.
Nó tồn tại như một sự vĩnh hằng, trường tồn theo thời gian. Lối so sánh giản dị, giàu hình
ảnh, người dân lao động đã thể hiện những khía cạnh trong hoạt động sản xuất. Tất cả
được người dân nhận thức và thể hiện như một cái gì đó tất yếu phải có. Để rồi, trong cuộc
sống vất vả ấy, họ vẫn tươi cười để chúc nhau:
“ Ngap hamu hu padai, nau raglai hu jiên”
( Làm ruộng được mùa, đi buôn được bạc)
3.4. Hình ảnh biểu trưng về hôn nhân trong thành ngữ tiếng Việt đối chiếu với thành
ngữ dân tộc.
Hôn nhân là cái gì cao đẹp về tinh thần, cái gì hòa hợp của tình yêu giữa trai gái, vợ chồng.
Từ xa xưa thành ngữ Việt Nam và các dân tộc thiểu số đã nói nhiều về lĩnh vực hôn nhân
như quan niệm về hôn nhân, ý thức sống chung của đôi trai gái, ước vọng tạo lập gia đình,
gây dựng sự nghiệp, hay hôn nhân hạnh phúc, hôn nhân bất hạnh cũng như phong tục
thách nhau trong hôn lễ, tập quán, lễ giáo hôn nhân,quan niệm hiếu đạo và bổn phận làm
con
Như trong thành ngữ tiếng Việt có:
Dựng vợ gả chồng (cưới vợ, gả chồng cho con).
Phải duyên vừa lứa.
Phải duyên phải số.
Trai tài gái sắc (trai gái xứng đôi).
Chồng loan vợ phượng (vợ chồng đẹp đôi, đằm thắm hạnh phúc).
Đồng cam cộng khổ (trong mọi hoàn cảnh đều có bên nhau).
Con bế con bồng (cảnh gia đình có nhiều con nhỏ).
Con đàn cháu đống.
Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy.
Già kén kẹn hom (kén chọn kỹ quá,cuối cùng vẫn không được như ý).
Tiếng Chăm có những thành ngữ về lĩnh vực hôn nhân như:
Haitai bà yava twei (tim dẫn hồn theo): khi bọn trẻ đã yêu nhau, mặc dùng không thuận
nhưng cha mẹ cũng phải chiều theo con cái.
Akauk thu bbuk pathah (đầu khô tóc ướt): ngoài sự chịu đựng nỗi cơ cực của người mẹ
trong việc nuôi nấng đàn con. Thành ngữ này còn biểu thị sự che chở của chồng đối với
vợ.
Ikak tian ralan hwa (thắt lưng buộc bụng): tình yêu thương gắn bó của người phụ nữ
(người vợ, người mẹ) với chồng con khiến họ quên mình, vừa chịu lao động vất vả, thắt
lưng buộc bụng và đôi khi còn lòn lõi kẻ giàu có để chồng con được yên ấm.
Hadơm oh muwda kaik, amraik oh muwda duc (kiến chẳng hề đốt, bồ nhọt chẳng hề
châm): sự chăm sóc, nuôi dưỡng kĩ lưỡng đầy lòng hi sinh cao cả của người mẹ đối với
con cái.
3.6. Hình ảnh biểu trưng về văn hóa đạo đức trong thành ngữ tiếng Việt đối chiếu với
thành ngữ dân tộc
Từ bao đời nay, văn học dân gian nói chung và thành ngữ nói riêng luôn là một kho tàng
lưu giữ những giá trị của mỗi dân tộc. Đó có thể là những khái niệm đơn thuần nhằm định
danh sự vật và cũng có khi là những giá trị truyền thống riêng biệt.
Ông bà ta có câu “Học ăn học nói, học gói học mở”, dù rằng việc ăn việc nói rất đỗi bình
thường, quá quen thuộc đối với mọi người nhưng ông cha ta vẫn có lời nhắc nhở.
Từ lúc bé cho tới khi trưởng thành mỗi con người chúng ta đều phải “học nói”. Trong cuộc
sống hằng ngày, nói giữ vai trò rất quan trọng trong giao tiếp. Thông qua cách nói năng,
cách ứng xử của một người ta có thể đánh giá được con người đó. “Nói” là một hoạt động
rất đa dạng và “cách nói” cũng rất khác nhau. Chính vì vậy từ ngày xưa ông bà ta đã nhận
thấy và để lại cho con cháu qua rất nhiều câu thành ngữ.
Mỗi dân tộc có một cách ứng xử riêng, chúng ta thử đi tìm hiểu cách ứng xử, giao tiếp của
ba dân tộc: Việt, Chăm, Tày qua những câu thành ngữ còn lưu giữ
Nội dung Tiếng Việt Tiếng Chăm Tiếng Tày
Nói không
đúng chủ đề,
hai người có
thể hiểu hai
vấn đề khác
nhau
Ông nói gà bà nói
vịt
Ong đom limauw, muk lac
kabaw- ông nói bò, bà nói
trâu
Phuối gằn nà, lòa kha cấy-
nói chuyện bên bở ruộng
lại nói chuyện quật chân
gà
Nói thẳng, Ăn ngay nói thẳng Đom sà bauh klauh sà Phuối đây xây vần rại- nói
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét