Thứ Tư, 12 tháng 3, 2014

Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê của tổng công ty cà phê việt nam trong xu thế hội nhập hiện nay


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê của tổng công ty cà phê việt nam trong xu thế hội nhập hiện nay": http://123doc.vn/document/1036137-mot-so-giai-phap-thuc-day-xuat-khau-ca-phe-cua-tong-cong-ty-ca-phe-viet-nam-trong-xu-the-hoi-nhap-hien-nay.htm





Cà phê có thể phát triển trên tàn dư núi lửa mà phần lớn là tro như ở Trung Mỹ,
trên đất có tầng phong hóa như Braxin. ở đó người ta trồng trên đất phát triển từ đá mẹ,
bazan hoặc sa thạch. ở Tây Phi, ấn Độ chủ yếu trồng trên đất granit. ở Việt Nam, các
loại đất như granite, sa phiến thạch, phù sa cổ, dốc tụ đều trồng được cà phê. Phần lớn
cà phê ở Việt Nam được trồng trên đất bazan như ở Đăk Lăk, Gia Lai, Đồng Nai, Lâm
Đồng, Phủ Quỳ (Nghệ An), miền trung du và vùng núi phía Bắc. Cũng có những vùng
cà phê trồng trên vùng đất granite như EaKa (Đăk Lăk), trên vùng đất xám pha granite
như Đăk Uy (Kon Tum). Các vùng trung du và miền núi phía Bắc nước ta trồng cà phê
chủ yếu trên đất có nguồn gốc từ đá thạch.
Địa hình trồng cà phê thường bằng phẳng hoặc lượn sóng. Những nơi địa hình có
độ dốc > 15
0
phải xử lý tốt công trình xói mòn, không được trồng cà phê vào vùng trũng
không thoát nước được.
Dù trồng cà phê trên loại đất nào thì vai trò của con người có tính quyết định trong
việc duy trì, bảo vệ, nâng cao độ phì nhiêu của đất. Ngay cả trên đất bazan, nếu không
được chăm sóc tốt thì cà phê vẫn không phát triển được. Ngược lại, những vùng đất
không phải là bazan, nếu tăng cường thâm canh vẫn có thể tạo nên khả năng vườn cây
phát triển tốt, năng suất cao.
1.2.2. Khí hậu:
Không phải vùng nào trên trái đất cũng trồng được cà phê. Cà phê chỉ trồng được
ở những vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Ngoài yếu tố đất đai, cây cà phê còn đòi hỏi một
số yêu cầu về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, ánh sáng, gió. Vì vậy, khi chọn vùng trồng
cà phê phải chú ý đến các yếu tố quan trọng này.
- Nhiệt độ: Phạm vi nhiệt độ phù hợp với mỗi giống cà phê có khác nhau. Cà phê
chè ở nơi mát và hơi lạnh, nhiệt độ thích hợp nhất từ 18
0
c - 25
0
c. Vì vậy, cà phê chè
thường được trồng từ miền núi có độ cao 600 - 2.500m. Ngược lại, cà phê vối thích hợp
ở những vùng nóng ẩm, nhiệt độ thích hợp từ 22
0
c - 26
0
c.
- Lượng mưa: Lượng mưa cần thiết đối với loại cà phê chè từ 1.300mm -
1.900mm, cà phê vối 1.300mm - 2.500mm. ở nước ta, lượng mưa tập trung 70% - 80%
vào mùa mưa gây ra hiện tượng thừa nước; mùa khô kéo dài từ 3 - 5 tháng và lượng
mưa chỉ chiếm 20% - 30% nên nhiều nơi cà phê thiếu nước nghiêm trọng, đặc biệt là
Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ.



- Độ ẩm: Độ ẩm của không khí phải trên 70% mới thuận lợi cho sinh trưởng và
phát triển của cây cà phê.
- ánh sáng: Cây cà phê chè là loại thích ánh sáng tán xạ, còn cây cà phê vối thích
ánh sáng trực xạ yếu.
- Gió: Gió lạnh, gió nóng, gió khô đều có hại đến sinh trưởng của cây cà phê. Gió
mạnh làm cho lá bị rách, lá rụng, các lá non bị thui đen; gió nóng làm cho lá bị khô héo
và tăng nhanh quá trình bốc hơi nước đặc biệt là về mùa khô.
1.3. Tình hình sản xuất và tiêu thụ cà phê thế giới.
1.3.1. Nguồn sản xuất cà phê thế giới:
Cây cà phê có nguồn gốc từ Châu Phi, vào thế kỷ XVII, cà phê được đưa sang
trồng ở Indonesia, sang thế kỷ XVIII nó được đưa sang vùng Tây bán cầu và được trồng
đầu tiên ở Matinique và vùng Swriname vùng đảo Caribê. Kể từ đó nó được trồng rộng
khắp vành đai nhiệt đới, cận nhiệt đới và Châu Mỹ la tinh. Sau này dù cà phê được nhân
rộng ở châu á, châu Phi nhưng Mỹ la tinh vẫn chiếm 2/3 sản lượng sản xuất và xuất
khẩu cà phê thế giới.
Hiện nay trên thế giới có khoảng 75 quốc gia trồng cà phê, trong đó có khoảng 51
nước xuất khẩu cà phê. Những nước trồng cà phê chủ yếu là những quốc gia đang hoặc
chậm phát triển. Tổng diện tích cà phê thế giới niên vụ 2000/2001 đạt 11,75 triệu ha
(tăng 2,2% so với niên vụ 1999/2000). Sản lượng cà phê nhân hàng năm biến động
trong khoảng 6,5 - 7,0 triệu tấn. Theo số lượng thống kê của FAO, niên vụ 2000/2001
sản lượng cà phê thế giới đạt 7,259 triệu tấn, tăng 6,0% so với niên vụ trước, trong đó
các nước Nam Mỹ và vùng Caribê đạt 4,175 triệu tấn (chiếm 57,6% sản lượng thế giới),
các nước Châu á là 1,78 triệu tấn ( chiếm 24,8%), còn lại là Châu Phi - 1,22 triệu tấn
(chiếm 16,8%). Nước có diện tích và sản lượng cà phê lớn nhất thế giới là Braxin-
chiếm tới 20% diện tích và 25% sản lượng cà phê thế giới. Thứ hai là Colombia (13%),
Việt Nam (7,2%), Indonesia (7%), Mexico (5,3%), ấn độ (4,5%) và Guatemala 4.2%.
Chính sự tăng giảm cà phê của các nước này sẽ chi phối trực tiếp đến tình hình cung -
cầu và giá cả cà phê trên thế giới.
Năng suất cà phê trên thế giới hàng năm đạt rất thấp - bình quân khoảng
600kg/ha. Gần đây nhiều nước đã tích cực áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiến bộ, lai
tạo ra các bộ giống cà phê mới, tăng mật độ trồng cà phê dày hơn, giải quyết tốt khâu



nước tưới nên năng suất cà phê tăng lên đạt đến 1 tấn/ha. Nước có năng suất cà phê
nhân cao nhất thế giới là Việt Nam đạt đến gần 2,0 tấn/ha.
Trong giai đoạn 1994 - 2005, do giá cà phê trên thị trường thế giới tăng lên đã
kích thích việc mở rộng sản xuất nên sản lượng cà phê dự tính tăng 2,7%/năm. Nhưng
sau đó do giá giảm nên sản lượng sẽ giảm dần và đạt nhịp độ tăng trưởng khoảng
1,5%/năm trong giai đoạn 2005 - 2010. Theo dự đoán của FAO, sản lượng cà phê toàn
cầu năm 2005 sẽ đạt 7,31 triệu tấn và năm 2010 sẽ là 8,0 triệu tấn. Khu vực sản xuất cà
phê lớn nhất thế giới vẫn là Châu Mỹ La Tinh và vùng Caribê với sản lượng ước đạt
4,78 triệu tấn vào năm 2005, trong đó Braxin đạt 2,3 triệu tấn.
1.3.2. Nhu cầu tiêu thụ cà phê thế giới:
Nhu cầu tiêu thụ cà phê tăng nhanh kể từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, đặc biệt
tập trung ở các nước công nghiệp phát triển. Trong vòng 50 năm kể từ 1947 đến 1997,
tổng sản lượng tiêu thụ cà phê từ 27,6 triệu bao lên 99,6 triệu bao(bao 60 kg) tức là tăng
khoảng 3,6 lần. Sự gia tăng về nhu cầu tiêu thụ cà phê là khá ổn định với mức tăng bình
quân của thế giới 1%/năm.
Theo dự đoán của cơ quan thông tin kinh tế Anh (EU), nhu cầu tiêu thụ cà phê thế
giới trong những năm tới tăng nhẹ. Nhu cầu trên những thị trường lớn vẫn chủ yếu
giống như những năm 1990. Nhu cầu tiêu thụ theo đầu người ở Mỹ giảm với tỷ lệ trung
bình 0,7%, ở Tây Âu cũng rất trầm lắng. Vì vậy, trong tương lai nhu cầu tiêu thụ trên
những thị trường khác cần phải được thúc đẩy, đặc biệt ở Châu á như: Nhật Bản, Trung
Quốc, Hàn Quốc; Nga và các nước Đông Âu khác. Lượng tiêu thụ đầu người thấp song
do nền kinh tế tiếp tục phát triển sẽ là tiềm năng lớn thúc đẩy tiêu thụ tăng.
Những nước xuất khẩu nhiều về loại cà phê chè (Arabica) là Braxin, Colombia,
Mexico. Sản lượng cà phê xuất khẩu bình quân những năm gần đây của Braxin là trên 1
triệu tấn/năm, Colombia khoảng 550 - 750 ngàn tấn, Mexico hơn 300 ngàn tấn/năm.
Những nước xuất khẩu cà phê vối (Robusta) lớn hiện nay là Việt Nam đạt từ 800 ngàn
đến 900 ngàn tấn/năm, Indonesia trên 350 ngàn tấn/năm, Cote Divoa trên 300 ngàn tấn
và Uganda khoảng 200 ngàn tấn/năm.
Bảng 1: Quan hệ cung cầu về cà phê trên thị trường thế giới.
Đơn vị: Triệu bao (1 bao= 60kg)
Vụ cà phê 2000/01 01/02 02/03 03/04 04/05 Năm 2010



Sản lượng
116,7 112,1 124,8 109,3 115,4 133,33
Tiêu thụ
106,40 107,60 108,02 109,74 118 123,82
Nguồn: Tổng công ty cà phê Việt Nam
Qua bảng thống kê trên ta thấy rằng quan hệ cung - cầu cà phê trên thế giới bị
mất cân đối trong giai đoạn 2000- 2003. Trong những năm này lượng cung cà phê luôn
cao hơn cầu, chính điều này là nguyên nhân khiến cho giá cà phê trên thế giới trong giai
đoạn này giảm mạnh. Tuy nhiên đến 2 niên vụ gần đây 2004 và 2005 lượng cung và cầu
cà phê thế giới đã cân bằng , đặc biệt niên vụ 2005 lượng cầu đã vượt cung, nguyên
nhân là do hạn hán kéo dài ở các nước Châu á và một số nước Nam Mỹ nên sản lượng
cà phê thế giới giảm mạnh điều này đã làm cho giá cà phê thế giới những tháng đầu
năm 2005 tăng mạnh có khi lên trên 1000 USD/tấn. Còn theo dự đoán của FAO thì năm
2010 nhu cầu cà phê thế giới sẽ là 123,82 triệu bao, trong khi đó lượng cung là 133,33
triệu bao. Như vậy, theo FAO thì trong những năm tới giá cà phê thế giới vẫn khó có
thể tăng cao.
Trong những nước có nhu cầu cao về cà phê thế giới thì những quốc gia phát triển
có nhu cầu tiêu thụ khoảng 4,711 triệu tấn (năm 2005). Trong đó các nước Châu ÂU là
2,736 triệu tấn. Các nước Châu á có nhu cầu tiêu thụ khoảng 400.000 tấn. Cũng theo dự
báo của FAO thì cà phê xuất khẩu năm 2005 sẽ là 5,696 triệu tấn cao hơn mức 5,1 triệu
tấn năm 2000 và đạt mức tăng trung bình hàng năm khoảng 2%/năm còn nhập khẩu cà
phê thế giới năm 2005 sẽ là 5,149 triệu tấn tăng khoảng 1,9%/năm. Đến năm 2010 thì
xuất khẩu cà phê thế giới đạt khoảng 6,3 triệu tấn với mức tăng bình quân là 2,2%/năm,
còn nhu cầu nhập khẩu là 5,72 triệu tấn với mức tăng bình quân là 2,05%/năm. Đối với
các quốc gia phát triển thì nhu cầu về nhập khẩu cà phê tăng chậm hơn với mức tăng
trung bình hàng năm chỉ khoảng hơn 1%/năm. Nếu mức tăng trưởng kinh tế thế giới
phục hồi trở lại và có mức tăng trưởng cao hơn thì nhu cầu về nhập khẩu cà phê cũng có
thể tăng lên trong những năm tới.
1.3.3. Nhận xét chung về xu hướng thị trường cà phê thế giới.
Sản lượng cà phê thế giới niên vụ 2004/2005 ước tính là 115,4 triệu bao. Theo sự
đánh giá của các chuyên gia thì sản lượng cà phê thế giới niên vụ 2005/2006 được dự
đoán ở mức 110 triệu bao, giảm chút ít so với vụ 2004/2005. Nếu so với nhu cầu thì
dường như nguồn cung đang bị thiếu hụt nhưng chính lượng tồn kho lớn ở các nước tiêu



thụ cộng với khả năng tài chính hạn hẹp và tâm lý muốn bán hàng để thu tiền ngay của
hầu hết các nước sản xuất đã làm cho thị trường hiện nay phụ thuộc hoàn toàn vào
người mua. Các quỹ và nhà đầu cơ có thể điều tiết thị trường, giá cả theo ý mình.
Mặc dù xu hướng giá tăng lên theo quy luật cung cầu nhưng một điều cần lưu ý
rằng mức giá cà phê trên thực tế biến động hết sức cao theo giá trên các thị trường kỳ
hạn, mức giá có thể tăng lên hoặc giảm xuống hàng chục đô la Mỹ/tấn sau vài phiên
giao dịch. Điều này cho thấy rõ là giá cà phê về lâu dài thì phụ thuộc quan hệ cung cầu
nhưng trong thời gian ngắn thì hầu như thoát ly khỏi giá trị và cung cầu thị trường.
Các chuyên gia cũng dự đoán sản lượng cà phê của Braxin cũng giảm so với vụ
trước và nguồn cung Robusta từ các nước khác như: Indonesia, ấn độ là ổn định. Tiêu
thụ cà phê có xu hướng tăng ở các thị trường chính do chuẩn bị mua cà phê để phục vụ
Nô en và Năm mới cũng như mùa đông sắp đến là các yếu tố hỗ trợ cho giá cà phê trên
thị trường thế giới.
1.4. Khái quát tình hình cà phê Việt Nam
Cây cà phê được trồng ở Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1857 do các giáo sĩ
truyền đạo nhập vào. Trải qua hơn một thế kỷ, đến nay cà phê đã trở thành một mặt
hàng nông sản chủ lực mang lại một khối lượng kim ngạch đáng kể cho đất nước. Lịch
sử của ngành cà phê cũng phải chịu những tác động lịch sử xã hội nên nó cũng có
những bước thăng trầm. Chúng ta có thể chia lịch sử của ngành cà phê Việt Nam qua
một số mốc thời gian như sau:
* Thời kỳ pháp thuộc (1858 - 1945):
Đã có những đồn điền cà phê đầu tiên được mở ra ở Hà Nam, Sơn Tây, Hòa Bình,
Tuyên Quang Sau đó được phát triển ra các vùng Bắc Trung Bộ và Trung du Bắc Bộ.
Sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, khi Pháp có âm mưu đặt Đông Dương vào thuộc địa
khai thác thì chúng mới bắt đầu tập trung vốn phát triển cà phê. Thời kỳ 1920 - 1923,
sau khi phát hiện ra vùng đất đỏ Bazan ở Tây Nguyên, người ta bắt đầu khai khẩn và lập
ra những đồn điền cà phê ở đây.
Trước Cách mạng tháng Tám, diện tích cà phê toàn quốc là 10.500 ha, sản lượng
năm cao nhất đạt 4.500 tấn. Hầu hết cà phê được xuất sang Pháp qua cảng nhập Le
Havre của Pháp.
* Thời kỳ kháng chiến chống pháp (1946 - 1954):



Thời kỳ này, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lập ra các doanh điền quốc
gia quản lý những đồn điền cũ do Pháp mở ra.
Do chiến tranh, vùng trung du và miền núi là vùng tranh chấp nên một phần lớn
diện tích bỏ hoang. Đến năm 1954, diện tích cà phê cả nước còn lại khoảng 4.000 ha,
chủ yếu ở các tỉnh miền Nam, sản lượng cà phê còn khoảng 2.500 tấn, trong đó Tây
Nguyên sản xuất được 2.300 tấn.
* Thời kỳ chống Mỹ cứu nước (1955 - 1975):
Sau khi miền Bắc giải phóng Nhà nước chủ trương xây dựng các nông trường
quốc doanh trong đó có nông trường cà phê, chủ yếu tập trung ở Phủ Quỳ, Nghệ An.
Trong vòng 6 năm 1956 - 1962, diện tích cà phê từ 500 ha tăng lên 14.800 ha, sản lượng
từ 225 tấn tăng lên 4.850 tấn (1968). Cà phê Việt Nam chủ yếu xuất sang các nước Liên
Xô và Đông Âu.
ở miền Nam, tình hình cà phê không có nhiều biến động. Từ 1946 - 1957, cà phê
tăng không đáng kể, từ 3.019 ha lên 3.370 ha. Từ năm 1957 - 1964 Ngụy quyền Sài Gòn
chủ trương lập các khu định điền khuyến khích tư nhân khai hoang, nên diện tích tăng
nhanh từ 3.370 ha(năm 1957) lên 11.120 ha(năm 1964). Năm 1963, sản lượng cà phê
đạt 3.000 tấn, năm 1973 trên 3.500 tấn, đại bộ phận cà phê được tiêu dùng trong nước,
xuất khẩu không đáng kể.
* Thời kỳ 1976 đến nay:
Sau khi nước nhà hoàn toàn thống nhất, Nhà nước đã quan tâm đúng mức đến việc
phát triển ngành cà phê. Để đưa ngành cà phê trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn,
Nhà nước đã thành lập Liên hiệp các Xí nghiệp cà phê Việt Nam, ở các địa phương đều
có các công ty cà phê, đưa vào phát triển kinh tế về quy mô, tốc độ và các dự án đầu tư
phát triển.
Qua gần 30 năm phấn đấu, ngành cà phê Việt Nam đã phát triển với tốc độ cao
vượt bậc. Đến nay diện tích cà phê cả nước đã là 500.000 ha, sản lượng xấp xỉ đạt 800 -
900 ngàn tấn/năm. Việt Nam trở thành nước xuất khẩu lớn thứ hai trên thế giới và đứng
đầu về sản xuất cà phê Robusta.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cà phê
2.1. Các nhân tố thuộc về vĩ mô
2.1.1. Chính sách mở cửa hội nhập kinh tế thế giới của Nhà nước.



Cũng như các loại hàng hoá khác, xuất khẩu cà phê cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ
chính sách mở cửa hội nhập. Nhờ có chính sách mở cửa hội nhập với kinh tế thế giới
mà thị trường cho xuất khẩu cà phê được mở rộng, cà phê Việt Nam có thể tiếp cận
được với các thị trường rộng lớn như EU, Hoa Kỳ qua đó làm tăng kim ngạch và số
lượng xuất khẩu của cà phê Việt Nam. Ngoài ra do có chính sách mở cửa hội nhập đúng
đắn của Đảng và Nhà nước nên ngành cà phê mới có thể tiếp cận được với các công
nghệ sản xuất và chế biến cà phê tiên tiến của thế giới thay thế cho các công nghệ cũ kỹ,
lạc hậu trước đó, từ đó mới nâng cao năng suất và chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt
Nam.
Ngoài chính sách mở cửa hội nhập ra thì việc tham gia các tổ chức định chế tài
chính nói chung và các tổ chức về cà phê thế giới nói riêng. Như việc tham gia vào tổ
chức thương mại thế giới (WTO), tham gia vào các khu vực thực hiện chung về thuế
quan của các quốc gia Đông Nam á (CEPT/AFTA) Rồi tổ chức cà phê thế giới (ICO),
Hiệp hội các nước xuất khẩu cà phê thế giới (ACPC). Việc tham gia vào các tổ chức này
sẽ giúp cho việc xuất khẩu cà phê giảm thiểu những rào cản tạo thuận lợi cho hoạt động
xuất khẩu cà phê. Bên cạnh đó còn giúp cho chúng ta quản lý tốt hơn hoạt động xuất
khẩu cà phê tránh tình trạng bị các nhà nhập khẩu, những nhà đầu cơ và các nhà rang
xay ép giá giúp cho nước xuất khẩu cà phê như chúng ta có được sự phát triển bền
vững.
Hiện nay nước ta đang trong tiến trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế nên phải
cam kết mở rộng thị trường, nới lỏng tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan. Theo lịch trình
thực hiện AFTA từ 1/7/2003, thuế nhập khẩu cà phê thành phẩm giảm từ 50% xuống
còn 20%. Hiệp định khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - Asean quy định: thuế nhập
khẩu sẽ giảm xuống 0% đối với Trung Quốc vào năm 2010 và vào năm 2015 đối với
các nước Việt Nam, Lào, campuchia, Myanma. Lộ trình cắt giảm này đang được đàm
phán để đẩy nhanh hơn nữa. Như vậy việc nhập cà phê thành phẩm của các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cà phê Việt Nam từ Lào và Trung Quốc sẽ có tác
động tích cực. Việc giảm thuế nhập khẩu cà phê thành phẩm để phục vụ cho chế biến
xuất khẩu sẽ làm giảm giá thành cà phê xuất khẩu của các doanh nghiệp. Tuy lượng cà
phê thành phẩm nhập khẩu là không đáng kể, nhưng điều này cũng làm cho việc kinh



doanh xuất khẩu cà phê của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam có thêm điều
kiện thuận lợi để kinh doanh mặt hàng cà phê trên thị trường quốc tế.
2.1.2. Cầu và thị trường nước nhập khẩu.
Cũng như bất kỳ một loại hàng hoá nào khác, cà phê xuất khẩu cũng chịu ảnh
hưởng bởi cầu của nước nhập khẩu. Khi các nước nhập khẩu có nhu cầu cao về cà phê
sẽ giúp cho nước xuất khẩu cà phê thúc đẩy xuất khẩu cà phê của mình. Nhưng nhu cầu
từ nước nhập khẩu không chỉ là nhu cầu chung về cà phê mà là nhu cầu về loại cà phê
nào. Như chúng ta đã biết cà phê có loại cà phê Arabica(cà phê chè), Robusta(cà phê
vối). Việt Nam là nước chủ yếu sản xuất cà phê vối, nếu nước nhập khẩu cà phê có nhu
cầu cao loại cà phê này thì sẽ thúc đẩy xuất khẩu cà phê của chúng ta, còn nếu nước
nhập khẩu có nhu cầu cao về cà phê nhưng lại là loại cà phê chè thì cũng không làm
tăng xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
Dung lượng của thị trường nước nhập khẩu về cà phê cũng ảnh hưởng lớn tới
hoạt động xuất khẩu cà phê. Nếu nước nhập khẩu có nhu cầu về cà phê nhưng dung
lượng của thị trường này không lớn thì lượng cà phê được nhập vào thị trường này cũng
không lớn và cũng không làm tăng xuất khẩu cà phê của nước nhập khẩu là bao nhiêu.
Ngoài nhu cầu ra thì thị trường nước nhập khẩu cũng có ảnh hưởng lớn đến hoạt
động xuất khẩu cà phê của các nước xuất khẩu. Cho dù nước nhập khẩu có nhu cầu cao
về cà phê và dung lượng thị trường lớn nhưng nước nhập khẩu có các chính sách nhằm
hạn chế nhập khẩu cà phê nhằm bảo hộ cho các nhà sản xuất cà phê trong nước thì cũng
làm hạn chế khả năng xuất khẩu cà phê của các nước xuất khẩu cà phê.
2.1.3. Môi trường cạnh tranh.
Môi trường cạnh tranh càng gay gắt thì dễ làm giảm xuất khẩu cà phê của chúng
ta nhất là khi cà phê của chúng ta là cà phê Robusta có giá trị thấp hơn cà phê Arabica.
Chất lượng cà phê của chúng ta lại thấp hơn các nước khác như Braxin, Colombia,
Indonesia. Làm cho việc xuất khẩu cà phê của chúng ta gặp nhiều khó khăn. Ngược lại
khi mà thị trường cà phê thế giới có sự cạnh tranh không cao như cầu quá cung thì sẽ
làm cho xuất khẩu cà phê có nhiều thuận lợi.
2.1.4. Các chính sách của Chính phủ.
Với cà phê xuất khẩu trong những năm vừa qua được Chính phủ hỗ trợ rất nhiều
thông qua các chương trình phát triển, thông qua các chính sách hỗ trợ về tài chính như



khoanh nợ, xoá nợ, cho vay ưu đãi, hỗ trợ xúc tiến thương mại vì vậy mà đã thúc đẩy
xuất khẩu cà phê của Việt Nam phát triển trong những năm vừa qua. Trong thời gian mà
ngành cà phê gặp khủng hoảng do sự biến động giá cả phức tạp của cà phê trên thị
trường thế giới, nhờ các chính sách này mà ngành cà phê Việt Nam vượt qua được cơn
khủng hoảng và vẫn là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới sau Braxin và là
nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới. Có thể nói các chính sách hỗ trợ của
Chính phủ đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho xuất khẩu cà phê Việt Nam. Nếu không có
các chính sách hỗ trợ này thì cà phê xuất khẩu Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn và Việt
Nam không thể trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn trên thế giới như hiện nay được.
Tuy nhiên, các chính sách này còn nhiều hạn chế và vướng mắc vì vậy nó chưa phát huy
hết vai trò của mình trong việc thúc đẩy xuất khẩu cà phê.
2.1.5. Yếu tố về sản xuất chế biến.
Việc quy hoạch vùng trồng cà phê hợp lý sẽ giúp cho chúng ta khai thác được lợi
thế vùng trong sản xuất cà phê. Nâng cao được năng suất, chất lượng của cà phê, qua đó
tạo điều kiện thuận lợi cho chế biến và xuất khẩu cà phê.
Công nghệ chế biến cũng ảnh hưởng tới xuất khẩu cà phê. Nếu chúng ta có được
công nghệ chế biến cà phê hiện đại với công suất lớn thì chúng ta sẽ nâng cao được giá
trị của cà phê xuất khẩu. Tạo ra sức cạnh tranh mạnh cho cà phê xuất khẩu của chúng ta
so với các nước xuất khẩu cà phê khác.
Việc phân bố các nhà máy chế biến, các cơ sở kinh doanh cà phê cũng như các
vùng sản xuất cà phê hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình vận chuyển, chế
biến và kinh doanh xuất khẩu cà phê. Qua đó sẽ giảm được chi phí trong hoạt động,
tăng khả năng cạnh tranh của cà phê xuất khẩu trên thị trường cà phê thế giới.
Ngoài ra các yếu tố cơ sở hạ tầng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới xuất khẩu cà
phê. Nếu có được cơ sở hạ tầng tốt thì giúp cho việc vận chuyển cà phê từ nơi sản xuất
tới nơi chế biến và kinh doanh xuất khẩu cà phê thuận tiện. Cơ sở hạ tầng tốt cũng tạo
điều kiện giúp cho việc chế biến và kinh doanh xuất khẩu cà phê thuận lợi. Góp phần
nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê xuất khẩu, qua đó nâng cao được kết quả và
hiệu quả của cà phê xuất khẩu.
2.1.6. Các nhân tố thuộc về quản lý.



Có thể nói con người có ý nghĩa quyết định trong mọi vấn đề, đặc biệt là trong
kinh doanh. Với kinh doanh xuất khẩu cà phê cũng vậy, cho dù có đầy đủ các nhân tố
thuận lợi khác nhưng nếu như không có những công nhân lành nghề, có khả năng vận
dụng khoa học kỹ thuật hay khả năng sử dụng máy móc trang thiết bị hiện đại trong sản
xuất chế biến cà phê thì cũng làm cho hoạt động xuất khẩu cà phê không có hiệu quả.
Ngoài ra, cho dù chúng ta có được mặt hàng cà phê có chất lượng và có sức
cạnh tranh cao nhưng không có người am hiểu về kinh doanh xuất nhập khẩu để tham
gia quản lý điều hành công việc kinh doanh xuất nhập khẩu thì xuất khẩu cà phê của
chúng ta cũng không thể có được kết quả tốt.
Những người làm công tác quản lý vĩ mô, hoạch định các chính sách liên quan
đến hoạt động xuất khẩu cà phê cũng có ảnh hưởng lớn tới hoạt động xuất khẩu cà phê.
Những người này sẽ cố vấn cho Chính phủ điều tiết và quản lý hoạt động xuất khẩu cà
phê. Nếu những người này có khả năng chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức tốt thì
sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xuất khẩu cà phê theo hướng bền vững và có
hiệu quả cao.
2.2. Các yếu tố thuộc vi mô.
2.2.1. Kênh và dịch vụ kênh phân phối của doanh nghiệp xuất khẩu.
Một kênh phân phối tốt không những giảm chi phí trong hoạt động nâng cao sức
cạnh tranh của cà phê xuất khẩu của doanh nghiệp mà còn giúp cho quá trình xuất khẩu
cà phê của doanh nghiệp được nhanh chóng, dễ dàng và nắm bắt tốt thông tin từ nguồn
cung ứng cũng như từ phía khách hàng.
Dịch vụ phân phối tốt sẽ giúp khách hàng hài lòng hơn khi mua cà phê của doanh
nghiệp. Dịch vụ phân phối còn là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu của các nhà xuất khẩu
nhằm tăng sức cạnh tranh của cà phê xuất khẩu của doanh nghiệp qua đó góp phần thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu cà phê của cả nước.
2.2.2. Giá cả và chất lượng.
Bất kể hàng hoá nào cũng vậy, nếu chất lượng tốt thì có sức cạnh tranh cao và sẽ
được tiêu thụ nhanh và mạnh hơn. Nếu cà phê có chất lượng tốt và đồng đều được
khách hàng đánh giá cao thì sẽ giúp cho các nhà xuất khẩu thúc đẩy hoạt đỗng xuất
khẩu cà phê của mình. Không những thế giá cà phê xuất khẩu còn cao hơn là cà phê của

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét