Dollar hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng
ngoại tệ đợc lu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nớc dollar hoá chính thức th-
ờng chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp, nhng chỉ có Andorra
dùng cả đồng Franc của Pháp và đồng Pezota của Tây Ban Nha. ở hầu hết
các nớc dollar hoá chính thức, cá đối tác t nhân đợc phép kí hợp đồng bằng
bất cứ loại tiền nào mà họ cùng đồng ý.
Theo IMF, hiện nay có khoảng 14 nớc đợc xếp là cá nớc dollar hoá
chính thức.
Theo nghiên cứu của hệ thống dự trữ Liên bang Mĩ, hiện tại, ngời n-
ớc ngoài nắm giữ khoảng 55% đến70% số dollar Mĩ lu hành. Còn theo ớc
tính của Bundesbank, ngời nớc ngoài giữ khoảng 40% tổng số DM đợc lu
hành.
ii. Thực trạng dollar hoá ở việt nam
Việc xuất hiện tình trạng dollar hoá ở Việt Nam ai cũng có thể
nhận biết rằng, chỉ sau những năm đầu của công cuộc đổi mới kinh tế, Nhà n-
ớc và mọi tầng lớp dân chúng mới có dịp tiếp cận khá nhiều và thờng xuyên
sử dụng USD cho nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh và các nhu cầu khác
nhau của ngời dân. Cũng từ thời điểm đó, ngời ta mới có dịp làm quen với tỷ
giá hối đoái, quản lý ngoại hối, kinh tế ngoại tệ. Công cuộc đổi mới kinh tế
đất nớc đã thực sự làm cho mọi cách cửa để phát triển kinh tế, giao lu kinh tế
với nớc ngoài; đợc mở ra chiều hớng, đa dạng, phong phú về hình thức và
chủng loại. Đặc biệt trong lĩnh vực ngoại hối, ngoại tệ, đầu t trực tiếp từ nớc
ngoài. Chính sách mở cửa của Nhà nớc không chỉ khuyến khích các nhà đầu
t từ nớc ngoài mà còn động viên, cổ vũ, khích lệ các nhà đầu t trong nớc. Đây
chính là ngòi nổ, đột phá khẩu cho việc đẩy mạnh, phát triển và tăng cờng
mọi giao lu kinh tế với bên ngoài.
Việc phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại trong điều kiện của
một nền kinh tế lạc hậu, đặc biệt trong điều kiện mà đồng tiền quốc gia
không chuyển đổi đợc không chỉ là một thử thách cực kì lớn mà còn là một
bài toán cần có lời giải.
Do vậy, Luật Đầu t Nhà nớc ra đời, luật quản lý ngoại hối đợc thông
qua đã mở cửa cho các luồng vốn từ nớc ngoài và đồng USD nhanh chóng
khẳng định vai trò của nó nh sẵn có trên thị trờng toàn cầu.
5
Tình trạng dollar hoá ở Việt Nam có những biểu hiện chính sau:
Thứ 1 Hệ thống Ngân hàng sử dụng rộng rãi các nghiệp vụ bằng
đồng dollar.
Có thể nói, d âm của lạm phát cao trên thế giới cuối thập kỷ 80 và
đầu thập kỷ 90 vẫn còn đọng lại trong tâm trí dân c. Mặt khác, lãi suất tiết
kiệm USD tăng dần khiến dân c lựa chọn giải pháp an toàn là tiết kiệm bằng
ngoại tệ. Điều này làm cho tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng số vốn huy
động của ngân hàng có xu hớng tăng lên.
Cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trong tổng vốn huy động của hệ thống
Ngân hàng
Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
ngoại tệ
39,2 33,5 31,7 33,2 33,6 39,1 45,3
VND
60,8 66,5 68,3 66,8 66,4 60,9 54,7
Tổng
100 100 100 100 100 100 100
. Đơn vị: %
(Số liệu tính đến hết tháng 9 năm 2001)
Nguồn: Báo cáo thờng niên của Ngân hàng Nhà nớc 1999 và thời
báo Ngân hàng số 78/2000.
Sự phát triển của nền kinh tế làm cho quan hệ thơng mại giữa Việt
Nam và các quốc gia ngày càng đa dạng và mở rộng. Để thanh toán cho các
hoạt động buôn bán, các bên xuất_nhập khẩu có thể sử dụng bất cứ đồng tiền
của một quốc gia nào đó theo thoả thuận, thông thờng là các đồng tiền mạnh.
Nghiệp vụ cho vay ngoại tệ của Ngân hàng nhờ đó mà tăng hơn.
6
Cơ cấu cho vay ngoại tệ trong tổng d nợ của hệ thống Ngân hàng.
Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
ngoại tệ
38,6 38,7 36,6 31,2 25,2 22,6 18,6
VND
61,4 61,3 63,4 68,8 74,8 77,4 81,4
Tổng
100 100 100 100 100 100 100
Đơn vị: %
(Số liệu tính đến hết tháng 10 năm 2000)
Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 1+2/2000. Tin tức (TTXVN) số
534/2000.
Trên cơ sở lý thuyết và xu hớng chung của nền kinh tế dollar hoá, các
ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ nhiều hơn nếu rủi ro phá giá cao hơn. Nhng
thực tế cho thấy cho vay ngoại tệ của hệ thống ngân hàng Việt Nam đến năm
2000 chỉ chiếm cha đến 20% tổng số d nợ đối với nền kinh tế của hệ thống
ngân hàng. Nh vậy, những biểu hiện của hiện tợng dollar hoá ở nớc ta chỉ
diễn ra mạnh mẽ ở trạng thái dollar hoá tiền gửi.
Thứ 2 Các Ngân hàng thơng mại (NHTM) có một khối lợng USD lớn ở
các ngân hàng (NH) nớc ngoài đợc xem nh là Xuất khẩu t bản.
Khi NH có sự chênh lệch giữa tỷ lệ tiền gửi và tỷ lệ tiền cho vay bằng
ngoại tệ thì phần ngoại tệ chênh lệch đó sẽ đợc NH sử dụng để dầu t kiếm lời
cho mình thông qua các hoạt động trên thị trờng quốc tế.
Tỷ trọng sử dụng vốn so với huy động ngoại tệ của hệ thống NH.
Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Tỷ trọng
135 148 141 104 73 47 33
Đơn vị: %
(Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 1+2/2000;
Tin tức (TTXVN) số 534/2000, Báo cáo thờng niên của NHNN năm 1999).
Nhìn vào bảng ta thấy rõ mức độ sử dụng vốn huy động ngoại tệ,
trong giai đoạn 1994_1997, cho vay bằng ngoại tệ vợt khả năng huy động của
các NH, do đó nguồn vốn nớc ngoài sẽ bù đắp phần thiếu hụt này. Giai đoạn
1998_2000 có xu hớng ngợc lại, đầu t tín dụng cho nền kinh tế chỉ chiếm một
7
phần vốn huy động. Giải toả phần vốn huy động ngoại tệ d thừa, các NH kinh
doanh trên thị trờng tiền tệ quốc tế hay đầu t vào trái phiếu Chính phủ.
Một mâu thuẫn nảy sinh là trong khi cán cân thơng mại của cả nớc là
nhập siêu, cần phải có ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu cấp
bách và các doanh nghiệp thiếu vốn phải đi vay nớc ngoài thì chúng ta lại gửi
một khối lợng USD không nhỏ ở nớc ngoài. Sự đảo hối này do chính sách
tiền tệ và những chính sách kinh tế vĩ mô khác tạo ra là cha hợp lý.
Thứ 3 Xu hớng sử dụng USD để tích luỹ tài sản danh nghĩa. Đặc biệt
dollar hoá phổ biến trong thời kì có lạm phát cao, tốc độ lu thông tiền trong
nớc tăng nhanh, USD lên giá liên tục với tốc độ lớn nhiều hơn so với chỉ số
giá. Năm 1988 là 432,6%; năm 1990 là 145,4% và năm 1991 là 203,1%. Và
hiện nay cũng vậy, đáng quan tâm là hai năm 1999 và 2000 trong điều kiện
chỉ số giá tiêu dùng giảm 0,5% (năm 1999 tăng 0,1%, năm 2000 giảm
0,6%) thì sức mua đối nội của VND tăng lên, nhng sức mua đối ngoại của
VND lại giảm 4,5% do tỷ giá VND/USD năm 1999 giảm 1,1%, năm 2000
giảm 3,4%. Tỷ giá từ đầu năm 2001 đến nay tăng nhanh nhất là từ tháng 6
đến nay nhng chỉ số giá không tăng. Từ đó việc sử dụng USD để tích luỹ tài
sản danh nghĩa trở nên hấp dẫn hơn.
Thứ 4 Đồng USD đợc lu hành trên lãnh thổ Việt Nam một cách tơng
đối phổ biến. USD đợc sử dụng để biểu hiện giá trị và đo lờng giá trị của các
hàng hoá và dịch vụ. Giá cả hàng hoá đợc công khai ấn định bằng USD và đ-
ợc đăng tải trên các thông tin và giá cả thị trờng.
Thứ 5 Việc sử dụng USD đã nhiễm vào Việt Nam và trở thành nh
một tập tục trong các hoạt động mua bán, thanh toán sinh hoạt với những tên
gọi rất đơn giản về đơn vị tiền tệ (100USD = 1 tờ = 1vé). Hiện tợng này có
thể thấy rõ trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của các ngành
dịch vụ. Song song tồn tại việc thanh toán bằng VND thì ở các nhà hàng,
khách sạn, các siêu thị, khách hàng kể cả ngời dân trong nớc và ngời nớc
ngoài đều có thể dể dàng thanh toán bằng USD. Hiện tợng sử dụng USD đã
bắt đầu xâm nhập vào mọi hoạt động của ngời dân Việt Nam, từ việc mua
linh kiện của máy vi tính cho đến phơng tiện đi lại nh xe máy ngời ta cũng có
thể dễ dàng giao dịch bằng USD.
Ngoài ra, USD còn là phơng tiện cất trữ thuận tiện, tổng hợp với các
hoạt động kinh tế ngầm nhất là với các tổ chức buôn lậu.
8
9
phần ii: nguyên nhân của tình trạng dollar hoá
và những ảnh hởng của dollar hoá
đến nền kinh tế việt nam.
I. nguyên nhân của tình trạng dollar hoá.
Hiện tợng dollar hoá đang là một vấn đề gây tranh cãi trong thời gian
qua, các nhà NH cũng nh các nhà kinh tế học đã đề xuất những ý kiến khác
nhau về những nguyên nhân nào gây ra hiện tợng dollar hoá. Họ đều phát
hiện ra rằng hiện tợng dollar hoá thờng xảy ra ở các nớc mà nền kinh tế có
lạm phát cao và hậu quả của lạm phát. Tuy nhiên lạm phát không phải là
nguyên nhân duy nhất để giải thích đợc hiện tợng dollar hoá trong thời kì
hiện nay khi lạm phát đã đợc kìm chế và kiểm soát với tỷ lệ thấp.
1. Nguyên nhân sâu xa:
Tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của tình trạng dollar hoá ở Việt Nam
cũng nh các nớc trên thế giới thì đó là:
_Trình độ phát triển nền kinh tế, cùng tính chất của nền kinh tế đó.
Dollar hoá thờng rơi vào các nớc có trình độ phát triển còn thấp, các nớc đang
phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trờng. Buôn
lậu cha đợc kiểm soát chặt chẽ, nhất là buôn lậu qua biên giới, buôn bán tiêu
ngạch.
_Trình độ dân trí, cùng tâm lý ngời dân. Các nớc có trình độ dân trí
cha cao, ngời dân còn có thói quen nắm giữ vàng và dollar thì thờng là nền
kinh tế có mức dollar hoá cao.
_Trình độ phát triển của hệ thống NH, nhất là hoạt động thanh toán.
Rõ ràng là khi hệ thống NH còn non trẻ, hoạt động thanh cha phát triển, công
nghệ thanh toán còn lạc hậu, thì thờng là có tình trạng dollar hoá ở nền kinh
tế.
_Chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, cùng mức độ đảm
bảo tính nghiêm minh của cơ chế quản lý. Néu nh đồng nội tệ ổn định, cơ
chế quản lý ngoại hối chặt chẽ, thì tình trạng dollar hoá nền kinh tế rất khó
xảy ra.
10
Khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ_đồng tiền của quốc gia đó.
2. Nguyên nhân trực tiếp:
Ngoài những nguyên nhân trên, tình trạng dollar hoá còn do những
yếu tố sau:
_Biến động tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống NH trong những năm qua,
đặc biệt là năm 1999 và 2000 chịu ảnh hởng của các tác động bên ngoài nh
sự mở rộng xu hớng toàn cầu hoá từ những năm 1990; sự tăng trởng cao và
ổn định nền kinh tế Mĩ đã làm cho đồng dollar Mĩ ngày càng có sức mạnh và
có tính hấp dẫn hơn so với các đồng tiền khác, trong đó có cả đồng Việt
Nam. Thêm vào đó, từ năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực
Châu á xảy ra đã có tác động nhất định làm giảm giá trị của đồng Việt Nam,
và ảnh hởng bất lợi đến kinh tế trong nớc. Trong khi đó, thu nhập của các
tầng lớp dân c còn thấp, với tâm lý muốn tiết kiệm để lo cho cuộc sống tơng
lai thì ngời dân lựa chọn những đồng tiền mạnh và ổn định.
Đồng dollar đợc sử dụng khá tự do. Trong cơ chế quản lý ngoại hối
hiện nay của nhà nớc ta, cho phép ngời Việt Nam nhận tiền kiều hối, tiền của
ngời thân ở nớc ngoài chuyển về bằng ngoại tệ mà không bắt buộc phải bán
cho NH, nhận VND nh trớc đây. Trong bối cảnh VND liên tục giảm giá so
với USD, lãi suất USD hấp dẫn nên rõ ràng họ không dại gì mà chuyển đổi
sang nội tệ_VND.
Đối với các doanh nghiệp trớc đây quy định phải kết hối 80% nhng
tỷ lệ kết hối quy định giảm xuống còn 40% tức là một doanh nghiệp có
nguồn thu ngoại tệ, trớc đây quy định phải bán ngay tới 80% cho NH, thì nay
chỉ phải bán 40%. Trớc diễn biến về tỷ giá và thị trờng việc bán ngoại tệ thì
dễ mà mua lại ngoại tệ của NH thì hết sức khó khăn. Trong khi đó, tỷ giá thì
tháng này một mức tháng sau lại khác. Do đó, các doanh nghiệp sẽ hết sức
tỉnh táo khi chỉ bán ngoại tệ theo tỷ lệ kết nối quy định, thậm chí còn chần
chừ, trì hoãn việc bán ngay mà để tồn tại số d ngoại tệ trên tài khoản là điều
dễ hiểu.
_Thu nhập bằng USD trong tầng lớp dân c tăng lên và mở rộng. Đó là
do ngời Việt Nam làm việc cho các công ty nớc ngoài và tổ chức quốc tế ở
Việt Nam, tiền cho ngời nớc ngoài thuê nhà và kinh doanh khách sạn mini,
kinh doanh du lịch, tiền của ngời Việt Nam ở nớc ngoài đi xuất khẩu lao
11
động hay đi học tập, tiền kiều hối gửi về, tiền của ngời Việt Nam đi hội thảo,
học tập và làm việc ngắn hạn ở nớc ngoài mang về.
Ngời Việt Nam đi du lịch ra nớc ngoài gia tăng nhanh chóng trong
những năm gần đây. Các công ty du lịch đều niêm yết, thông báo, quảng cáo
giá cả tour du lịch bằng USD. Do đó, muốn đi du lịch phải có ngoại tệ, phải
tích trữ USD. Ngời Việt Nam đi xuất khẩu lao động ở nớc ngoài phải đặt cọc
một khoản bằng USD trong tài khoản NH. Mà số lợng ngời này cũng tăng lên
rất nhanh rong thời gian qua. Bên cạnh đó, ngời Việt Nam đi du học nớc
ngoài bằng các hình thức khác nhau, chủ yếu là đi du học tự túc đang tăng lên
gấp bội. Muốn đợc chấp nhận vào học ở nớc ngoài, ngời xin đi học phải
chứng minh đợc năng lực tài chính của mình, thể hiện bằng số d tiền gửi USD
trong các NH Việt Nam. Tiếp đến trong quá trình học, gia đình ở trong nớc
phải thờng xuyên chuyển tiền cho con em mình theo học bằng USD thông
qua các NH. Do đó phải có số d tiền gửi USD tại các NH để chuyển tiền ra n-
ớc ngoài cho con em du học.
_Cơ chế về lãi suất đã làm cho khuynh hớng dollar hoá không giảm.
Thể hiện ở chỗ, từ năm 1991 đến nay, trong công cuộc chống lạm phát ở
Việt Nam, lãi suất tín dụng NH (lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay) đã đợc
điều chỉnh hạ thấp nhiều lần. Lãi suất tín dụng bằng VND vẫn luôn cao hơn
lãi suất tín dụng bằng USD. Biên độ chênh lệch giữa lãi suất tín dụng bằng
USD và VND tạo ra khe hở cho việc lợi dụng ăn chênh lệch lãi suất, nhất là
đối với các doanh nghiệp vay vốn và kích thích vay vốn tín dụng bằng USD
làm cho khuynh hớng dollar hoá không đợc giảm đi.
Với quy định số 08 NH/QĐ ngày 14/01/1991 và thông t số
02/2000/NHNN7 ngày 24/02/2000, quyết định số 180/QĐ-TTG của Thủ tớng
Chính phủ về việc giảm tỷ lệ kết hối ngoại tệ của các tổ chức có thu ngoại tệ
từ 80% xuống 50% các NHTM đợc nâng lãi suất tiền tiết kiệm USD để thu
hút ngoại tệ. Khi vốn ngoại tệ bị ứ đọng, các NHTM đã gửi vốn ra nớc ngoài
hởng lãi suất cao hơn lãi suất cho vay ngoại tệ ở trong nớc. Tất cả những điều
chỉnh ấy đã kích thích ngời dân, các doanh nghiệp tìm kiếm nắm giữ ngoại
tệ, chuyển dịch tài sản của họ từ VND sang USD bằng cách gửi tiết kiệm
ngoại tệ vào NH để hởng lãi kép (lãi tiết kiệm và lãi tỷ giá).
_Mệnh giá của tờ VND thấp (cao nhất chỉ 100.000Đ, cha bằng
7USD), thực chất chỉ đáp ứng những nhu cầu lu thông chi trả bình thờng còn
12
giá cả những mặt hàng thông dụng phải sử dụng tới các mệnh giá cao nhất.
Đó cũng là một lý do dẫn tới việc sử dụng USD trở nên rất thích hợp, thuận
tiện về nhiều phơng diện. Mệnh giá đồng tiền chỉ là vấn đề kỹ thuật của chế
độ tiền tệ nhng nếu không thích ứng cũng là một yếu tố để USD chiếm vị trí
của đồng bản tệ và thúc đẩy quá trình dollar hoá.
_Thời kì từ năm 1992 đến nay khi lạm phát đợc kiềm chế ở mức thấp,
Chính phủ đã quyết định chấm dứt sử dụng biện pháp phát hành tiền để bù
đắp thiếu hụt NSNN. Nhng trong thực tế, việc còn sử dụng một bộ phận vốn
tiền phát hành và sử dụng một bộ phận USD của quỹ điều hoà ngoaị tệ của
NHNN để làm nguồn vốn tín dụng đầu t xây dựng cơ bản của Nhà nớc hoặc
vốn cho vay trung hạn của các NHTM quốc doanh, thực chất vẫn là bù đắp
thiếu hụt NSNN và là nguyên nhân thúc đẩy thêm quá trình dollar hoá ở Việt
Nam.
_Hệ thống kho bạc Nhà nớc huy động vốn thông qua việc phát hành
trái phiếu (USD) để bù đắp thiếu hụt NSNN cũng là nguyên nhân thúc đẩy
quá trình dollar hoá ở Việt Nam.
_Tình trạng buôn lậu, nhất là buôn lậu qua biên giới và trên biển khá
phát triển và quản lý lỏng lẻo. Tình trạng các doanh nghiệp, các thành phần
kinh tế, các cửa hàng kinh doanh, các cửa hiệu vàng bạc bán hàng thu ngoại
tệ, thu đổi ngoại tệ còn tuỳ tiện, diễn biến phổ biến.
ii. ảnh hởng của tình trạng dollar hoá đến nền
kinh tế việt nam.
Dollar hoá không chỉ là một vấn đề ở Việt Nam mà đang là một vấn
đề lớn đã và đang diễn ra trên thế giới. Có nhiều ngời cho rằng dollar hoá là
một hiện tợng hoàn xấu và cần xoá bỏ. Có ý kiến lại cho rằng dollar hoá nó
cũng có mặt tích cực cần đợc phát huy. Đặc biệt với xu hớng toàn cầu hoá nh
hiện nay nhiều cuộc thảo luận về vấn đề dollar hoá chính thức nền kinh tế đối
với các nớc chậm phát triển đã đợc tổ chức. Tuy nhiên một hiện tợng nào đó
cũng có hai mặt của nó, có khi mặt đúng, mặt tích cực của thời kì trớc có thể
trở thành mặt tiêu cực của thời kì phát triển sau. Bởi vậy ta cũng có thể thấy
đợc hiện tợng dollar hoá có tác động hai mặt: tích cực và tiêu cực.
1. Tác động tích cực.
13
_Có một lợng lớn ngoại tệ, các NH có điều kiện mở rộng các hoạt
động của mình nhất là các hoạt động đối ngoại. Hơn nữa, sự tồn tại của các
khoản tiền gửi bằng USD tại các NH trong nớc tạo công cụ hội nhập thị trờng
trong nớc với thị trờng khu vực và thị trờng thế giới, giảm thiểu các chi phí
giao dịch tài chính quốc tế.
_Một lực lợng USD đợc gửi trong các NH tạo thành nguồn vốn ngoại
tệ lớn để cho vay và đầu t cho nền kinh tế, hạn chế đợc việc phải đi vay nớc
ngoài. Song trong điều kiện cho vay bằng ngoại tệ của các NH gặp khó khăn,
thì với lãi suất trên thị trờng quốc tế cao, các NH trong nớc đem gửi ở nớc
ngoài. Rõ ràng là ngời dân cũng đợc hởng lợi từ lãi suất hơn là cất trữ trong
nhà, các NH cũng có thu nhập về nghiệp vụ tiền gửi và có lợi ích nh ở phần
trên. Quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ.
_Thêm vào đó, thời kì cả cán cân thơng mại và cán cân thanh toán
đều thâm hụt nghiêm trọng việc thu hút mọi nguồn USD trôi nổi trên thị tr-
ờng và các chính sách để thu hút kiều hối qua NH là một giải pháp tích cực
để đảm bảo nhiều cân đối vật chất khác của nền kinh tế.
_Một đất nớc với một đồng tiền riêng thờng đợc phát hành bởi
NHTƯ-sẽ có chính sach tiền tệ của nó. Trên lý thuyết thì điều này cho phép
NHTƯ quản lý đợc mức cung tiền, lãi suất, tỷ giá nhằm đến mục tiêu chỉ vì
lợi ích của riêng đất nớc đó. Trên thực tế thì hầu nh tất cả các nớc đang phát
triển đã trải qua những vấn đề nghiêm trọng về chính sách tiền tệ, điều hành
chính sách tiền tệ của họ-đó chính là việc các nớc này thiếu rất nhiều những
thể chế cũng nh kinh nghiệm cần thiết về thiết kế, điều hành, thực thi chính
sách tiền tệ. Trong bối cảnh đó thì việc dollar hoá dờng nh là một bớc tiến
quan trọng trong việc ổn định gía cả trong nớc, đặc biệt là những nớc thờng
mắc phải những vấn đề nghiêm trọng về chính sách tiền tệ.
2.Tác động tiêu cực.
_Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định
các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ không đợc độc
lập mà chịu nhiều ảnh hởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi có
những cuộc khủng hoảng xảy ra. Dollar hoá làm giảm hiệu quả điều hành
chính sách tiền tệ:
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét