quan của Quốc hội hiện nay
3.1. Hoạt động giám sát của Quốc hội 49
3.2. Hoạt động giám sát của UBTVQH 70
3.3. Hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của
Quốc hội
78
4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
84
4.1. Về nguyên nhân khách quan 84
4.2. Nguyên nhân chủ quan 84
* Kết luận Chương 2 87
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI CAO CỦA QUỐC HỘI, HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA CÁC CƠ QUAN CỦA
QUỐC HỘI
90
1. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát
tối cao của Quốc hội, hiệu quả hoạt động giám sát của các
cơ quan của Quốc hội
90
1.1. Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát tối cao của Quốc hội, hiệu quả hoạt động giám sát
của các cơ quan của Quốc hội
90
1.2. Phương hướng nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động
giám sát của Quốc hội
92
2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám
sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
94
2.1. Đối với hoạt động giám sát của Quốc hội 95
5
2.2. Đối với hoạt động giám sát của UBTVQH 105
2.3. Đối với hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và các Ủy
ban của Quốc hội
108
2.4. Bảo đảm các điều kiện để nâng cao hiệu quả hoạt động
giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
110
2.5. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động giám
sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
112
* Kết luận Chương 3 114
KẾT LUẬN 116
Danh mục tài liệu tham khảo 119
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
UBTVQH UBTVQH
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
ĐBQH ĐBQH
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, Quốc hội được xác định là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và
thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội có ý nghĩa hết sức quan
trọng, thể hiện vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
7
của các cơ quan nhà nước, bảo đảm tôn trọng và phát huy quyền dân chủ của
nhân dân.
Trong những năm qua, cùng với quá trình đổi mới của cả hệ thống
chính trị theo đường lối của Đảng, hoạt động của Quốc hội có nhiều đổi mới
và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Quốc hội ngày càng thực hiện tốt
hơn chức năng, nhiệm vụ theo quy định của hiến pháp và pháp luật, trong đó,
hoạt động giám sát của Quốc hội tiếp tục được đẩy mạnh, chất lượng, hiệu lực
được nâng lên. Nội dung giám sát đã tập trung vào nhiều vấn đề bức xúc
trong cuộc sống, có tác động tích cực đến hoạt động lập pháp và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần phát triển kinh tế xã hội và
giữ gìn trật tự kỷ cương của đất nước.
Tuy nhiên, hoạt động giám sát của Quốc hội trong những năm qua còn
có những mặt hạn chế. Hiệu quả hoạt động giám sát mặc dù đã đạt những kết
quả nhất định nhưng mới đáp ứng ở mức thấp so với yêu cầu, đòi hỏi của
cuộc sống, từ nguyện vọng của nhân dân và quy định của hiến pháp, pháp
luật. Một số nội dung giám sát quan trọng như việc giám sát quản lý, sử dụng
ngân sách; quản lý vốn và tài sản nhà nước; công tác cải cách thủ tục hành
chính; cải cách tư pháp chưa được tập trung cao; giám sát việc ban hành văn
bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh chưa làm được nhiều và thường
xuyên; giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân vẫn
còn lúng túng, hiệu quả chưa cao; chưa chú trọng theo dõi, đôn đốc đến cùng
việc tiếp thu, giải quyết các kiến nghị để đánh giá đúng kết quả, hiệu lực giám
sát; hoạt động giám sát về phòng, chống tham nhũng cũng chưa thu được kết
quả như mong muốn.
Bên cạnh đó, việc lựa chọn phương thức giám sát còn bị động, nhiều
cuộc giám sát mới dừng lại ở việc nghe báo cáo, nắm tình hình và chủ yếu
dựa vào thông tin do chính các cơ quan chịu sự giám sát cung cấp; các công
8
cụ phục vụ hoạt động giám sát chưa đủ mạnh, do đó phát huy hiệu quả chưa
cao; chưa xây dựng được các thiết chế phù hợp để bảo đảm cho Quốc hội có
đầy đủ điều kiện tiến hành hoạt động giám sát một cách thực chất.
Về đối tượng và nội dung quyền giám sát tối cao của Quốc hôi, quyền
giám sát của UBTVQH, của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội
hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, hoạt
động của UBTVQH, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội chỉ là
hoạt động bổ khuyết, hỗ trợ cho hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội.
Quan điểm khác lại cho rằng hoạt động giám sát của UBTVQH, Hội đồng dân
tộc và các ủy ban của Quốc hội gắn liền với hoạt động giám sát tối cao của
Quốc hội, nằm trong một thể thống nhất, không tách rời nhau. Trong đó,
UBTVQH, Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội thực hiện chức năng
giám sát của mình theo quy định của pháp luật và phục vụ cho hoạt động
giám sát tối cao của Quốc hội. Chính vì thế, việc nghiên cứu xây dựng luận
cứ khoa học nhằm đánh giá đầy đủ và thống nhất chức năng và hiệu quả hoạt
động giám sát của các cơ quan của Quốc hội trong tổng thể hoạt động giám
sát của Quốc hội là một yêu cầu cần thiết trong quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu Đề tài
Vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và các cơ
quan của Quốc hội đã được tập trung nghiên cứu từ những góc độ khác nhau.
Trong thời gian gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về chức năng
giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội như: Luận án Tiến sĩ
“Quyền giám sát của Quốc hội đối với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân” của NCS Phạm Văn Hùng, năm 2004; Luận án Tiến sĩ “Hoàn thiện cơ
chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam” của NCS Trương Thị Hồng Hà, năm 2007; Luận án Tiến sĩ “Cơ sở lý
9
luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát
của Quốc hội Việt Nam” của NCS Trần Tuyết Mai, năm 2009. Ngoài ra còn
có một số sách báo, ấn phẩm chuyên khảo như: “Một số vấn đề về hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước CHXNCN Việt Nam”, tập thể tác
giả do PGS.TS. Lê Minh Thông chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 2001;
“Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta
hiện nay” của tập thể tác giả do GS.TSKH Đào Trí Úc và PGS.TS. Võ Khánh
Vinh đồng chủ biên, NXB. Công an nhân dân, 2003; “Quyền giám sát của
Quốc hội - Nội dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu” do TS. Nguyễn Sĩ
Dũng chủ biên, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2004; ấn phẩm “Đổi mới và hoàn
thiện quy trình lập pháp của Quốc hội” của Văn phòng Quốc hội, NXB Chính
trị Quốc gia, 2004; ấn phẩm “Quốc hội Việt Nam - những vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Văn phòng Quốc hội, 2005; đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà
nước “Quy trình và thủ tục trong hoạt động của Quốc hội” của Ban Công tác
lập pháp của UBTVQH, Hà Nội, 2005; “Cơ quan lập pháp và hoạt động giám
sát” của Văn phòng Quốc hội, NXB Tư pháp, 2006
Ngoài ra, còn có một số đề tài nghiên cứu và một số bài viết đăng trên
các tạp chí chuyên ngành, các báo cáo tại các cuộc hội thảo, hội nghị đề cập
về hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung.
Mặc dù các phương thức tiếp cận của các tác giả là không giống nhau
nhưng nhìn chung, các tác giả đều khẳng định về vị trí pháp lý của Quốc hội
trong hệ thống tổ chức bộ máy của nhà nước ta với tư cách là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất, được Hiến pháp quy định với 03 chức năng cơ bản là
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, lập pháp và giám sát. Trong
đó, chức năng giám sát của Quốc hội là một chức năng quan trọng nhưng
trong thời gian vừa qua chưa đáp ứng được với yêu cầu đổi mới và kiện toàn
10
bộ máy nhà nước hiện nay. Do đó, cần thiết phải có những giải pháp đồng bộ
và kịp thời để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội.
Các đề tài, ấn phẩm nói trên mặc dù đã nghiên cứu tương đối sâu sắc,
cụ thể về chức năng giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội nhưng
vẫn chưa đi sâu vào nghiên cứu mối liên hệ giữa hoạt động giám sát của Quốc
hội và hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội trong một thể thống
nhất là hoạt động giám sát chung của Quốc hội để từ đó có một cách nhận
thức đúng đắn vị trí, vai trò của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong cơ
chế quyền lực nhà nước của nước ta hiện nay mà chỉ chủ yếu tập trung vào
phân tích những tồn tại, hạn chế cả về lý luận và thực tiễn hoạt động giám sát
và cơ chế để thực hiện chức năng giám sát nói chung của Quốc hội trong tổng
thể hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong khi đó, hoạt động giám sát của
UBTVQH, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội ngày càng có vị trí
quan trọng và góp phần đáng kể vào thành quả hoạt động giám sát tối cao của
Quốc hội. Vì thế cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu để đánh giá và đề xuất
những giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc
hội và các cơ quan của Quốc hội trong một thể thống nhất.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
này là:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quyền giám sát tối cao của Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội; phân biệt với các hình thức giám sát, kiểm tra,
kiểm sát, thanh tra của các cơ quan nhà nước khác.
- Phân biệt và chỉ ra các quan điểm về thực chất hoạt động giám sát của
Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội.
11
- Nghiên cứu khái niệm hiệu quả hoạt động giám sát và xây dựng các
tiêu chí làm căn cứ đánh giá toàn diện thực trạng của hoạt động giám sát hiện
nay. Từ đó, đề xuất các giải pháp tổng thể, khả thi nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật về thực tiễn hoạt động giám
sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; đánh giá một cách khoa học,
khách quan những mặt mạnh, mặt yếu, những vướng mắc, bất cập trong thực
tiễn tổ chức các hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
- Nghiên cứu đề xuất các phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của Chủ nghĩa
Mác- Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về tổ chức quyền lực nhà nước; về nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân; về sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu
luận văn như: phân tích, tổng hợp, so sánh
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề nâng cao hiệu
quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và hoạt động giám sát của các cơ
quan của Quốc hội trong một thể thống nhất.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
12
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về hiệu quả giám sát tối cao
của Quốc hội, hiệu quả giám sát của các cơ quan của Quốc hội trong tổng thể
hoạt động giám sát của Quốc hội.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy tại các trường đại học chuyên ngành luật, cho các hoạt động của
các cơ quan thực tiễn trong việc xây dựng và thi hành luật.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, phần nội dung gồm 3 chương, phần kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo. Bố cục của Luận văn gồm:
Chương 1 – Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội.
Chương 2 – Quy định của pháp luật và thực trạng hoạt động giám sát
của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong thời gian qua.
Chương 3 – Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC
HỘI, CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI
1. Quyền giám sát của Quốc hội
1.1. Khái niệm giám sát
Từ góc độ ngôn ngữ ở các nước, “giám sát” được hiểu theo những khía
cạnh chủ yếu sau:
13
- “Giám sát” được hiểu là việc “theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm
vụ” [Đại từ điển tiếng Việt. Nxb Văn hóa – thông tin, tr 108]
- “Giám sát” được hiểu là “một nhóm hoặc một tổ chức để theo dõi
người, việc nào đấy” [Từ điển Tiếng Nga. Nxb Moscow, tr 204]
- “Giám sát” được hiểu là “sự bảo đảm cho công việc hoặc hoạt động
được thực hiện đúng theo quy định”. [ Từ điển Tiếng Anh. Nxb Leicester, tr
536]
Với cách tiếp cận này, khái niệm “giám sát” có nội hàm gồm hai yếu tố
sau:
+ Hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra của một chủ thể nhất định;
+ Phương thức bảo đảm cho công việc hoặc hoạt động được thực hiện
đúng theo quy định.
Từ giám sát xuất hiện từ một từ đồng nghĩa với “contrerôle” [3, tr 1]
(tiếng Pháp) có nghĩa là phần nửa kia của cuộn giấy. Nghĩa của từ này xuất
phát từ một câu chuyện cổ. Trước kia, khi các tài liệu được ghi trên các cuộn
giấy chỉ thảo, sau đó chúng được chia làm đôi, mỗi bên liên quan cất giữ. Nếu
như có yêu cầu xác nhận tính chất xác thật của tài liệu thì hai nửa của cuộn
giấy được đem ráp với nửa kia – và nó xác nhận tính xác thực của tài liệu. Do
đó, “giám sát” đầu tiên được hiểu là sự xác định tính chất đúng đắn của tình
hình sự việc [4, tr 12]. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu về hoạt động
giám sát của Quốc hội thì các nhà khoa học pháp lý cho rằng hoạt động giám
sát không chỉ bao gồm một nghĩa là sự xác định tính chất đúng đắn của sự
việc mà nó còn có nhiều nội dung và mục đích khác như xác định trách nhiệm
chính trị của đối tượng chịu sự giám sát hoặc còn bao gồm cả quyền xử lý các
hành vi vi phạm phát hiện trong quá trình giám sát. Quyền giám sát của Quốc
hội được các nhà khoa học pháp lý nước ngoài định nghĩa như sau:
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét