Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

_u_t_v_o_kcn_kcx

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
- Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định;
- Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản
xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các
cơ sở hiện có, duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất - kỹ thuật không thuộc
các doanh nghiệp.
Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện
cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư vận
hành thì kết quả của đầu tư cơ bản không hoạt động được, ngược lại không có
đầu tư cơ bản thì đầu tư vận hành chẳng để làm gì. Đầu tư cơ bản thuộc loại
đầu tư dài hạn, đặc diểm kỹ thuật của quá trình thực hiện đầu tư để tái sản xuất
mở rộng các tài sản cố định là phức tạp, đòi hỏi số vốn lớn, thu hồi lâu (nếu có
thể thu hồi).
Đầu tư vận hành chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu, đặc điểm kỹ
thuật của qúa trình thực hiện đầu tư không phức tạp. Đầu tư vận hành cho các
cơ sở sản xuất kinh doanh có thẻ thu hồi nhanh sau khi đua ra các kết quả đầu
tư nói chung vào hoạt động.
2.6. Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái
sản xuất xã hội.
Có thể phân hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành đầu tư
thương mại và đầu tư sản xuất.
Đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và
hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn đầu tư ngắn, vốn vận động
nhanh, độ mạo hiểm thấp do trong thời gian ngắn tính bất định không cao, lại
dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao.
Đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn (5; 10; 20 năm hoặc lâu hơn), vốn
đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, vì
tính kỹ thuật của hoạt động đầu tư phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu
tố bất định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được
(về nhu cầu, giá cả đầu vào và đầu ra, cơ chế chính sách, tốc độ phát triển khoa
- 5 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
học kỹ thuật, thien tai, sự ổn định chính trị…). Loại đầu tư này phải được
chuẩn bị kỹ, phải cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu
quả của hoạt động đầu tư trong tương lai xa; xem xét các biện pháp xử lý khi
các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn và có lãi khi hoạt động
đầu tư kết thúc, khi các kết quả đầu tư đã hoạt động hết đời của mình.
Trong thực tế, người có tiền thích đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh thương
mại. Tuy nhiên, trên giác độ xã hội, loại hoạt động đầu tư này không tạo ra của
cải vật chất cụ thể một cách trực tiếp, những giá trị gia tăng do hoạt động đầu
tư đem lại chỉ là sự phân phối lại thu nhập giữa các ngành, các địa phương, các
tầng lớp dân cư trong xã hội.
Do đó, trên giác độ điều tiết vĩ mô, nhà nước thông qua các cơ chế chính
sách của mình làm sao để hướng được các nhà đầu tư không chỉ đầu tư vào
lĩnh vực thương mại mà cả vào lĩnh vực sản xuất, theo các định hướng và mục
tiêu đã dự kiến trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong cả nước.
2.7. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã
bỏ ra của các kết quả đầu tư.
Có thể phân chia hoạt động đầu tư thành đầu tư ngắn hạn (như đầu tư
thương mại) và đầu tư dài hạn (các lĩnh vực đầu tư sản xuất, đầu tư phát triển
khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng…).
2.8. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư.
Hoạt động đầu tư có thể phân chia thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực
tiếp.
- Đầu tư gián tiếp: Trong đó ngườibỏ vốn không trực tiếp tham gia điều
hành các kết quả đầu tư. Đó là việc các chính phủ thông qua các chương trình
tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho các chính phủ của
các nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội; là việc các cá nhân, các tổ chức
mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu… để hưởng lợi tức (gọi là
đầu tư tài chính).
- 6 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
- Đầu tư trực tiếp: Trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều
hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp lại được
phân thành hai loại: Đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển.
Đầu tư dịch chuyển là loại đầu tư trong đó người có tiền mua lại một số
cổ phần đủ lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong
trường hợp này, việc đầu tư không làm gia tăng tài sản của doanh nghiệp, mà
chỉ thay đổi quyền sở hữu các cổ phần của doanh nghiệp.
Đầu tư phát triển là loại bỏ vốn đầu tư để tạo nên những năng lực sản xuất
phục vụ mới (về cả lượng và chất). Đầy là loại đầu tư để tái sản xuất mở rộng,
là biện pháp chủ yếu để cung cấp việc làm cho người lao động, là tiền đề để
thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch.
Chính sự điều tiết của bản thân thị trường và các chính sách khuyến khích
đầu tư của nhà nước sẽ hướng việc sử dụng vốn của các nhà đầu tư theo định
hướng của nhà nước, từ đó tạo nên được một cơ cấu đầu tư phục vụ cho việc
hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, có nghĩa là người có vốn sẽ không chỉ
đầu tư cho lĩnh vực thương mại mà cả cho lĩnh vực sản xuất, không chỉ đầu tư
tài chính, đầu tư chuyển dịch mà cả đầu tư phát triển.
2.9. Theo nguồn vốn.
- Vốn huy động trong nước (vốn tích lũy của ngân sách, của doanh
nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư).
- Vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư gián tiếp, vốn đầu tư trực tiếp).
Phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò của
mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng địa
phương và toàn bộ nền kinh tế.
2.10. Theo vung lãnh thổ (theo tỉnh và theo vùng kinh tế của đất nước).
Cách phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng vùng
kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở
từng địa phương.
- 7 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Ngoài ra, trong thực tế, để đáp ứng yêu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế
người ta còn phân chia đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo quy mô và theo các
tiêu thức khác nữa.
3 Khái niệm khu chế xuất.
Trên thực tế có rất nhiều khái niệm khác nhau về khu chế xuất, theo ý
kiến của nhiều chuyên gia kinh tế, khu chế xuất ngày nay là sự phát triển, hoàn
thiện của các cảng tự do và khu vực mậu dịch tự do.
Theo khái niệm của tổ chức phát triển của Liên hiệp quốc, khu chế xuất là
một khu vực tương đối nhỏ, có phân cách về địa lý trong một quốc gia nhằm
thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hướng về xuất khẩu bằng
cách cung cấp cho các doanh nghiệp đó những điều kiện về đầu tư và mậu dịch
thuận lợi đặc biệt so với các doanh nghiệp trong nước. Đặc biệt, khu chế xuất
cho phép các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa dùng cho sản xuất hàng xuất
khẩu miễn thuế dựa trên kho quá cảnh.
Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khu chế xuất được hiểu là”khu
công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản
xuất hàng xuất khẩu và cho các hoạt động xuất khẩu, trong đó bao gồm một
hoặc nhiều doanh nghiệp hoạt động, có ranh giới về mặt địa lý xác định, do
chính phủ quyết định thành lập.
3.1 Đặc điểm của khu chế xuất
- Đó là một khu vực lãnh thổ của một nước, được quy hoạch độc lập,
thường được ngăn cách bằng tường rào kiên cố để hoạt động cách biệt với
phần nội địa.
- Mục đích hoạt động của khu chế xuất là thu hút các nhà sản xuất công
nghiệp nước ngoài và trong nước hướng vào xuất khẩu thông qua những biện
pháp đặc biệt như ưu đãi về thuế quan, về các điều kiện mậu dịch và các loại
thuế khác.
- 8 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
- Hàng hóa, tư liệu sản xuất- nhập khẩu của khu chế xuất được miễn thuế
quan.
3.2 Vai trò của khu chế xuất đối với sự phát triển kinh tế.
Việc xây dựng và đưa các khu chế xuất vào hoạt động nhằm đạt được
những mục tiêu sau:
- Tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Tiếp nhận khoa học công nghệ và kinh nghiệm, tác phong làm việc tiên
tiến của chủ đầu tư nước ngoài.
- Tạo việc làm, tăng thu nhập, đồng thời nâng cao chất lượng làm việc của
lao động tại nước sở tại.
- Tăng thu ngoại tệ thông qua việc thu tiền các dịch vụ điện nước, thông
tin, thuê mặt bằng…
- Thúc đẩy sự phát triển kinh tế và cải thiện cảnh quan của một số vùng
lãnh thổ quốc gia.
4. Khái niệm khu công nghiệp
Khu công nghiệp tập trung là một khu vực được xây dựng cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tiến hành các họat động sản xuất kinh doanh, trong đó có
sẵn các nhà máy và các dịch vụ tiện nghi cho con người sinh sống.
Mục tiêu xây dựng các khu công nghiệp tập trung của nước sở tại được
thể hiện một số điểm sau:
- Thu hút đầu tư trên quy mô lớn và phát triển kinh tế.
- Thúc đẩy xuất khẩu.
- Tạo việc làm.
- Tiếp nhận công nghệ, kinh nghiệm tác phong làm việc tiên tiến.
- 9 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
- Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Phát triển cơ sở hạ tầng.
- Cân đối sự phát triển giữa các vùng.
- Kiểm soát sự ô nhiễm môi trường.
4.1 Đặc điểm của khu công nghiệp tập trung.
- Về mặt pháp lý, khu công nghiệp tập trung là một phần lãnh thổ của
nước sở tại, các doanh nghiệp họat động trong khu công nghiệp tập trung chịu
sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại.
Ví dụ các doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp tập trung
Việt Nam chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, trong đó bao gồm: Quy
chế về khu công nghiệp và khu chế xuất , Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến
khích đầu tư trong nước, Luật lao động…
- Về mặt kinh tế, khu công nghiệp tập trung là nơi tập trung nguồn lực để
phát triển công nghiệp, cụ thể là:
+ Huy động được các nguồn lực của nước sở tại, cuả nhà đầu tư nước
ngoài đóng góp vào việc phát triển các cơ cấu vùng và các ngành công nghiệp
ưu tiên theo mục tiêu của nước sở tại.
+ Việc phát triển kinh tế của khu công nghiệp tập trung thuận lợi hơn so
với các khu khác của đất nước.
- Về tính chất hoạt động.
+ Là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và các doanh nghiệp
cung cấp các dịch vụ mà không có dân cư (gọi chung là doanh nghiệp khu
công nghiệp). Khu công nghiệp là nơi xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất
sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc các đơn vị kinh doanh dịch vụ gắn liền
với sản xuất công nghiệp. Theo điênù 6 Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ
cao ban hành kèm theo Nghị định 36/CP thì doanh nghiệp khu công nghiệp có
- 10 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
thể là các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài hoặc các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Các doanh nghiệp này được kinh doanh trong các lĩnh vực chủ yếu sau:
Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng.
Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và
tiêu dùng trong nước, phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kỹ
thuật, quy trình công nghệ.
Nghiên cứu triển khai công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo
ra sản phẩm mới.
Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp.
- Về cơ sở hạ tâng kỹ thuật.
Các khu công nghiệp đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng thuận lợi cho hoạt
động sản xuất kinh doanh như đường xá, điện nước, điện thoại…Thông
thường việc phát triển cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp do một công ty xây
dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đảm nhiệm. Ở Việt Nam những công ty này là
các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài
hoặc doanh nghiệp trong nước thực hiện. Các công ty phát triển cơ sở hạ tầng
khu công nghiệp sẽ xây dựng các kết cấu hạ tầng sau đó được phép cho các
doanh nghiệp khác thuê lại.
- Về tổ chức quản lý.
Trong thực tế mỗi khu công nghiệp đều thành lập hệ thống ban quản lý khu
công nghiệp cấp tỉnh tại các tỉnh, thành phố trực tiếp để thực hiện các chức
năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong khu công
nghiệp. Ngoài ra tại các khu công nghiệp còn có nhiều bộ như: Bộ kế hoạch
đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Xây dựng…
- 11 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
4.2 Vai trò của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế.
4.2.1 Tăng cường khả năng thu hút đầu tư, góp phần thực hiện mục tiêu tăng
trưởng kinh tế:
Hầu hết các nước đang ở thời kỳ đầu trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước đều phải gặp một bài toán nan giải là tình trạng thiếu vốn. Thông
qua những ưu đãi đặc biệt so với sản xuất trong nước các khu công nghiệp có
được môi trường đầu tư hấp dẫn, vì vậy nó có khă năng thu hút được nhiều
vốn đầu tư đặc biệt là vốn FDI. Khu công nghiệp đã đóng góp đáng kể trong
việc thu hút FDI. Chẳng hạn như Đài Loan và Malaxia, trong những năm đầu
phát triển, khu công nghiệp đã thu hút được 60% số vốn FDI. Đồng thời, các
doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp phần lớn là các đơn vị có
tiềm năng. Do đó hoạt động có hiệu quả góp phần vào các mục tiêu phát triển
của đất nước. Trong đó đáng kể nhất là việc góp phần đẩy mạnh xuất khẩu,
tăng thu ngoại tệ do việc phát triển sản xuất hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập
khẩu. Ỏ một số nước, khu công nghiệp đã góp phần đáng kể cho việc đâỷ
mạnh xuất khẩu. Ví dụ như Malaxia, hiện nay giá trị xuất khẩu của các khu
công nghiệp chiếm 30% trong tổng giá trị xuất khẩu của các sản phẩm chế
biến, ở Mêhicô là 50%.
4.2.2 Tạo ra mối liên kết giữa các ngành nghề.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp
đòi hỏi những nguồn cung cấp thường xuyên nguyên vật liệu và dịch vụ đầu
vào, điều này tạo ra mối liên hệ giữa các doanh nghiệpkcn và các doanh
nghiệp kinh doanh khác. Việc đáp ứng các nguyên vật liệu và dịch vụ đầu vào
với chất lượng cao và thường xuyên sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp
ngoài khu công nghiệp. Tại một số nứơc tỷ lệ cung cấp một số đầu vào khá
cao, như Hàn Quốc tỷ lệ sử dụng nguyên vật liệu trong nước tăng từ 3% năm
1971 lên 34% năm 1979 và duy trì tỷ lệ này từ đó đến nay.
4.2.3 khu công nghiệp là cơ sỏ tiếp cận với kỹ thuật và công nghệ hiện đại, học
hỏi phương thức quản lý mới, nâng cao trình độ của người lao động.
- 12 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Các khu công nghiệp khi thành lập đều đặt ra mục tiêu tiếp cận các công
nghiệp hiện đại. Theo một nhà kinh tế phương tây nhận định: việc thành lập
các khu công nghiệp còn có ý nghĩa hơn là một sự thay đổi chính sách, bởi sự
thay đổi chính sách từ bóp nghẹt sang cởi mở thông thoáng chỉ có ý nghĩa tối
đa khi chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường. Còn sự thực
khi nền kinh tế đã hạn chế bớt đi các trói buộc phong kiến, hành chính thì điều
có ý nghĩa hơn là một lại là một chính sách kỹ thuật và công nghệ khả dĩ đủ
hấp dẫn để thu hút được các kỹ thuật và công nghệ mới của nước ngoài vào sự
tái thiết nền kinh tế nội địa. Bên cạnh đó các doanh nghiệp còn chú trọng vào
công tác đào tạo cán bộ, công nhân cho phù hợp với trình độ của máy móc
cũng như phương thức kinh doanh mới. Do vậy, trình độ của người lao động sẽ
được nâng lên phù hợp với tác phong lao động công nghiệp.
4.2.4. khu công nghiệp tạo thêm việc làm cho người lao động.
Hầu hết các nước đang phát triển trong quá trình phát triển kinh tế đều gặp
phải tình huống khó xử: nếu theo đuổi mục tiêu toàn dụng nhân lực thì khó
thực hiện mục tiêu chống lạm phát, đồng thời ước muốn nền sản xuất xã hội
đạt hiệu quả cao bằng cách du nhập các công nghệ tinh vi tức là ít sử dụng lao
động sống thì sẽ làm gia tăng nạn thất nghiệp. Tuy chưa phải là giải pháp lý
tưởng nhưng việc thiết lập các khu công nghiệp là một cơ hội quan trọng để
giải quyết mâu thuẫn này. Theo ngân hàng thế giới châu Á là nơi tạo ra nhiều
việc làm nhất.
5 Phân biệt khu công nghiệp và khu chế xuất.
5.1 Về hàng hoá sản xuất: khu công nghiệp tập trung sản xuất các hàng công
nghiệp có thể phục vụ xuất khẩu, có thể phục vụ nhu cầu sử dụng trong nứơc,
còn khu chế xuất sản xuất các hàng hoá chủ yếu phục vụ mục đích xuất khẩu.
5.2 Về các khuyến khích tài chính: Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ, mức độ ưu tiên
cho từng khu , chính phủ nứơc sở tại ban hành các ưu đãi cụ thể khác
nhau( dựa trên cơ sở khung ưu đãi đã công bố cho các nhà đầu tư) cho các khu
công nghiệp tập trung và khu chế xuất. Trong đó thường bao gồm các ưu đãi
- 13 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
về thuế thu nhập công ty, thuế xuất- nhập khẩu, chế độ hoàn thuế, thuế chuyển
lợi nhuận ra nước ngoài…
5.3 Về mức độ ảnh hưởng đến nền kinh tế nứơc sở tại: Kinh nghiệm phát triển
của các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy, nhìn chung khu công
nghiệp tập trung tạo ra mối liên kết với nền kinh tế nước sở tại tốt hơn các khu
chế xuất thông qua tạo lập việc làm và thu mua nguyên vật liệu từ các nhà
cung cấp địa phương. Các khu chế xuất thường tìm nguồn nguyên vật liệu
trong nội bộ công ty nên chúng chủ yếu mua nguyên vật liệu từ nước ngoài, do
đó ít mua mua nguyên liệu từ nguồn địa phương hơn các khu công nghiệp tập
trung.
5.4 Về việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước sở tại
Theo nghiên cứu của ngân hàng thế giới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc
biệt ở các nước đang phát triển như Việt Nam, thường cũng gặp khó khăn
trong tương tự như các nhà đầu tư nước ngoài về thủ tục hành chính và thủ tục
được hưởng ưu đãi vê đầu tư. Do vậy, việc xây dựng các khu công nghiệp tập
trung sẽ giúp các doanh nghiệp này tận dụng được các ưu đãi đầu tư để trước
hết tập trung vào phát triển thị trường trong nước, sau đó là xuất khẩu và đầu
tư ra nước ngoài khi đã đủ lực, còn các khu chế xuất đôi hỏi các doanh nghiệp
phải thoả mãn yêu cầu về tỷ lệ xuất khảu cao ngay từ khi mới tham gia.
5.5 Về xây dựng các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung: do sự định
hướng phát triển sản xuất hàng hoá ở các khu này khác nhau nên việc lựa chọn
địa điểm của chúng cũng khác nhau. Các khu chế xuất yêu cầu có vị trí thuận
lợi để thực hiện hoạt động xuất khẩu( ở gần hoặc có điều kiện giao thông thuận
tiện đến các cảng, bến bãi, hệ thống kho tập kết hàng…). Các khu công nghiệp
tập trung lại yêu cầu vị trí đảm bảo có hệ thống giao thông thuận tiện cả tới các
địa điểm tiêu thụ nội địa.
5.6 Về tính thời gian của khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung : Theo
đánh giá của ngân hàng thế giới qua xem xét các trường hợp cùa Đài Loan,
Malaxia, các khu chế xuất chỉ đóng góp động lực ban đầu cho phát triển các
hàng hoá chế biến xuất khẩu của nước sở tại(có hiệu quả trong ngắn hạn). Khi
- 14 -

Xem chi tiết: _u_t_v_o_kcn_kcx


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét