Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

Nâng cao chất lượng tín dụng tại vpbank

B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
nguyên tắc này phải xác định lãi xuất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay
nói cách khác là lãi suất thực duơng. Tuy nhiên vì lãi suất chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố khác nhau nên trong một số trường hợp lãi suất danh nghĩa có
thể lớn hơn tỷ lệ lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết
hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ
tín dụng, kế uớc thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi vay cam kết thanh
toán cho vay khi đến thời hạn thanh toán.
1.1.2 Vai trò của hoạt động tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiều vốn là hiện tượng
thường xuyên xảy ra. Nền kinh tế thị trường bao gồm nhiều chủ thể trong nền
kinh tế bao gồm các doanh nghiệp, các hộ gia đình và chính quyền mỗi một
khu vực có một nhu cầu khác nhau về quỹ cho vay.
Đối với doanh nghiệp : nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp bao gồm hai
thành phần cơ bản đầu tư vào hàng tồn kho và đầu tư vào tài sản cố định.
Những thành phần đầu tư chịu tác động của nhiều yếu tố khách nhau. Những
sự thay đổi ròng về hàng tồn kho được phát sinh chủ yếu từ sự chênh lệch
giữa doanh số bán dự tính và doanh số bán thực hiện như đã dự tính, nếu như
doanh số bán thực hiện như doanh số bán dự tính thì không lượng hàng tồn
kho không vượt quá mức cần thiết. Ngược lại nếu doanh số bán thực hiện
vuợt quá mức dự tính thì doanh nghiệp tồn kho ở mức thấp so với tổng doanh
số bán. Vì vậy sự biến động của hàng tồn kho ảnh hưởng nhiều đến nhu cầu
của doanh nghiệp về quỹ vay. Bởi vi hàng tồn kho thường đựoc tài trợ bằng
những khoản vay ngắn hạn thông thường tại các ngân hàng thương mại và
thông qua tín dụng thương mại do các nhà cung cấp dành cho doanh nghiệp
cho nên những thay đổi về hành tồn kho thường gây ra các biến động mạnh
trong nhu cầu của doanh nghiệp về khối lượng hàng tồn kho từ đó gây ra
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
5
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
những biến động về lãi suất ngắn hạn.
Nhu cầu vốn vay lớn nhất của doanh nghiệp được xác định theo kế hoạch
đầu tư chúng thường xuất phát từ cân nhắc cản thận của ban quản trị trong
thời gian dài. Những nhu cầu thay đổi cầu về quỹ cho vay nhằm đáp ứng dầu
tư. Ít biến đổi hơn so với nhu cầu về quỹ cho vay nhămd đáp ứng nhu cầu về
hàng tồn kho. Nhìn chung các nhà máy thiết bị được tài trợ bằng các quỹ cho
vay dài hạn. Điều này kiến cho khu vực thị trường tài chính dài hạn ổn định
hơn so với khu vực tài chính ngắn hạn.
Đối với chính quyền : khu vực chủ yếu khác liên quan đến nhu cầu về
quỹ trong các thị trường tài chính là khu vực chính quyền.
Nhu cầu tài chính của khu vực chính quyền liên quan chủ yếu từ chính
sách tài chính. Quy mô của ngân sách phụ thuộc vào các quy mô thuế suất,
chi tiêu của chính phủ vào hàng hóa dịch vụ và thanh toán các khoản nợ.
Thiếu hụt ngân sách là nguyên nhân tạo ra mức cầu của quỹ cho vau vì
mức thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng cách đi vay trên thị trường tài
chính duới hình thức phát hành trái phiếu.
Nhu cầu của người tiêu dùng bao gồm nhu cầu về thực phẩm, trang trí,
chi phí y tế văn hóa hàng lâu bền nhà ở và cá chi phí xa xỉ phẩm khác. Trong
đó hàng tiêu dụng hàng hóa xa xỉ nhạy cảm với lãi suất. một sự thay đổi về lãi
suất sẽ dấn đến sự gia tăng của nhu cầu về những món hàng hóa này. Mặt
khác các nhu cầu yếu phẩm hàng ngày không nhạy cảm với lãi suất. cũng
giống như doanh nghiệp, yếu tố tâm lý cũng ảnh hưởng đến người tiêu dùng.
Trong giai đoạn kinh tế trì trệ thì nhu cầu về quỹ cho vay giảm mặc dù lãi suất
thị trường thấp, vì nỗi lo sợ nền kinh tế khủng hoảng hoặc thất nghiệp. Ngược
lại khi nguời tiêu dùng tin tưởng nền kinh tế phát triển thì lãi suất thấp có tác
dụng thúc đầy tiêu dùng mặc dù đang ở trong nền kinh tế khó khăn.
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
6
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Nhiệm vụ cơ bản của hệ thống tài chính là phân phối những quỹ vay từ
các đơn vị thặng dư tiền tiết kiệm sang tay các đơn vị thiếu hụt tiền tiết kiệm
sự phân phối này được thực hiện qua các thị trường tài chính và trung gian tài
chính. Trên thực tế, quỹ cho vay được trao đổi với người vay bằng các con
đường khác nhau.
Giao dịch trực tiếp giữa chủ thể vay và các chủ thể cho vay. Người đi
vay và cho vay có thẻ liên hệ trực tiếp với nhau không cần có sự giúp đỡ của
tổ chức trung gian tài chính hoặc bất kỳ các định chế tài chính nào khác.
Phương pháp này gọi là tài trợ trực tiếp, sau khi hoàn thành một giao dịch
người cho vay giao cho người vay một tài sản cố định người vay giao cho
người cho vay một tài sản tài chính để đổi lấy quỹ. Thông thường thì người đi
vay cam kết trong tương lai thực hiện các khoản chi trả cho người cho vay và
người cho vay thu lại đủ quỹ đã cho vay cộng thêm một khoản lợi tức từ
chuyển nhượng qũy.
Giao dịch tín dụng bán trực tiếp thông qua các nhà môi giới. Một phương
pháp thông dụng khác của họat động trao đổi trực tiếp là các trái quyền của tài
chính giữa các chủ thể tài chính giữa người vay và người cho vay và cho vay
là kĩ thuật tài trợ bán trực tiếp. Trong một số trường hợp người vay và người
đi vay dựa vào bên thứ ba để hoàn thành hợp đồng tín dụng.
Giao dịch tín dụng gián tiếp. những khiếm khuyết của tài trợ trực tiếp và
bán trực tiếp mở đường cho một phương pháp thứ ba đó là thực hiện các giao
dịch tài chính thông qua họat động của ngân hàng tổ chức trung gian tài chính
hoặc tài trợ gián tiếp. Bằng phương pháp này cả hai bên chủ thể đi vay và chủ
thể cho vay đều được thỏa mãn các yêu cầu tài chính nhờ các tổ chức trung
gian tài chính.
Giao dịch tín dụng của ngân hàng là kênh truyền tải vốn quan trọng nhất
chiếm trên 50% chu chuyển cho vay trong nền kinh tế. Đối với các nước phát
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
7
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
triển tỷ lệ cao hơn nhiều sở dĩ như vậy xuất phát từ vai trò trung gian tài chính
của các ngân hàng và các đinh chế tài chính nhận tiền gửi khác như sau:
Trung gian về mệnh giá : các ngân hàng và các định chế tài chính huy
động các khoản tiền tiết kiệm nhỏ từ các tổ chức cá nhân hoặc từ tổ chức
những quỹ này lại được nhập thành những quỹ lớn để cấp phát chủ yếu cho
các doanh nghiệp. Thực tế các khoản vay lớn gấp hàng trăm lần so với các
một khoản tiền tiết kiệm.
Trung gian rủi ro sai hẹn : các ngân hàng cấp phát những khỏan vay chi
những người đi vay nhiều rủi ro và đồng thời phát hành những chứng khoán
tuờng đối an toàn và lưu họat để huy động quỹ cho vay từ những người tiết
kiệm không chấp nhận rủi ro.
Trung gian về hạn kỳ : quỹ cho vay họat động tương đối ngắn hạn từ
người tiết kiệm và người này không chấp nhận giao quỹ của họ với kỳ hạn
dài. Trong đó người đi vay đòi hỏi sử dụng quỹ với thời hạn lâu hơn. Tín
dụng sẽ giải quyết được mâu thuẫn đó tức là trung gian kỳ hạn.
Trung gian về thông tin là nói đến tiến trình các ngân hàng sử dụng
năng lực của họ để thu thập và xử lý thông tin thị trường tài chính thay cho
người tiết kiệm thuờng không có thì giờ lẫn nghiệp vụ để nắm bắt những thay
đổi của thị trường và cũng không thể tiếp cận thông tin liên quan đến thị
trường và các cơ hội đầu tư. Nhằm thu thập thông tin đầy đủ về người đi vay
các tổ chức tín dụng phải tiêu tốn đáng kể về thời gian vốn và cả nghiệp vụ
những nguồn lực mà những nhà tiết kiệm lớn hay nhỏ và ngay cả một số nhà
tiết kiệm lớn cũng không có được.
Ngày nay, với xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ,tín dụng ngân
hàng còn tham gia tạo điều kiện phát triển các mối quan hệ đối ngoại.thông
qua hoạt động này các nước có thể mở rộng và thắt chặt mối quan hệ với nhau
tạo điều kiện thúc đẩy sự mở rộng tăng cường nguồn vốn tín dụng.
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
8
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
1.1.3 Phân loại tín dụng
Ngân hàng cho vay dưới rất nhiều hình thức trong đó các hình thức sử
dụng rộng rãi nhất bao gồm :
Các khoản cho cho vay kinh doanh ngắn hạn :
- Cho vay mua hàng dự trữ.
- Cho vay vốn lưu động.
- Cho vay ngắn hạn với các công trình xây dựng.
- Cho vay kinh doanh chứng khoán.
- Cho vay kinh doanh bán lẻ.
- Cho trên tài sản.
Các khoản cho vay cho vay kinh doanh dài hạn :
- Cho vay kỳ hạn mua các thiết bị và các tài sản cố định khác.
- Cho vay luân chuyển.
- Cho vay theo dự án.
- Cho vay tài trợ mua lại công ty.
Các khoản cho vay kinh doanh ngắn hạn :
Các khoản cho vay mua hàng dự trữ : từ trước đến nay các ngân hàng
thường thích cho các hãng vay ngắn hạn bổ sung tạm thời vốn họat động.
Trong thực tế cho tới sau chiến tranh thế giới lần thứ hai các ngân hàng vẫn
chủ yếu cấp tín dụng dưới hình thức tự thanh toán. Các khoản vay này chủ
yếu được tài trợ cho việc mua hàng dự trữ như nguyên liệu thô hoặc hàng
hóa. Các khoản vay này thường tận dụng chu kỳ kinh doanh của doanh
nghiệp như sau:
- Tiền mặt chỉ dùng để mua hàng hóa dự trữ nguyên vật liệu bán thánh
phẩm hoặc thành phẩm.
- Hàng hóa được sản xuất ra để bán.
- Hàng hóa đã bán (thường là bán chịu )
- Tiền mặt thu về (ngay cả khi bán hàng hoặc thu về từ các khoản thu
bán chịu) và được dùng để thanh toán cho ngân hàng.
Trong trường hợp này ngân hàng kỳ hạn của khoản vay bắt đầu được
tính khi hãng cần vốn đáp ứng mua hàng kết thúc khi hãng nhận được tiền
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
9
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
mặt bán hàng và nhập vào tài khoản để trả nợ cho ngân hàng.
Mặc dù cho đến ngày nay các ngân hàng không còn đơn thuần chỉ cho
vay các khoản thanh toán như trước mà nó đã xuất hiện hàng lọat các loại
hình cho vay khác nhau các khoản cho vay ngắn hạn thường mang tính tự
thanh toán vẫn chiếm hơn 50% giá trị các khoản vay trong thanh toán ngân
hàng .
Trên thực tế các khoản vay này chỉ có kỳ hạn kéo dài trong vòng vài
tuần hoặc vài ngày thường liên quan đến nhu cầu vay ngắn hạn để phục vụ
cho nhu cầu vay ngắn hạn để trang trải chi phí như thuế suẩt hoặc là trả lãi cổ
phiếu và thanh toán các khỏan nợ khác
Cho vay vốn lưu động : Đây là những khoản cho vay ngắn hạn đối với
các hãng kinh doanh với kỳ hạn kéo dài từ vài ngày đến một năm. Các khoản
vay vốn lưu động thường được sử dụng để mau hàng dự trữ hoặc nguyên vât
liệu do đó nó cũng tương tự nhu khoản vay ngắn hạn được đề cập ở trên.
Thông thường các khoản vốn lưu động được sữ dụng để đáp ứng mức
sản xuất và nhu cầu tín dụng trong các thời kỳ cao điểm của chu kỳ kinh
doanh. Thông thường các khoản vay vốn lưu động thường được bảo đảm
bằng các khoản thu hoặc được xác định bằng hàng tồn kho và khách hàng sẽ
chịu lãi suất thả nổi trên lượng tiền vay thực tế họ đã sử dụng. Khỏan lệ phí
cam kết được tính theo phần trăm của toàn bộ hạn mức. Ngân hàng cũng đòi
hỏi khách hàng phải có số dư bù tiền gửi. Số dư bù tiền gửi bao gồm lượng
tiền gửi bắt buộc xác định trên quy mô của hạn mức tín dụng.
Vay ngắn hạn các công trình xây dựng : một hình thức vay ngắn hạn có
phổ biến hiện nay là cho vay hỗ trợ các công trình nhà ở, các tòa nhà văn
phòng, các trung tâm thương mại các công trình khác. Mặc dù thời gian xây
dựng công trình cho vay kéo dài nhưng các khỏan cho vay chỉ mang tính chất
tạm thời. Các khoản vay này cấp vốn cho bên thi công để công nhân thuê thiết
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
10
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
bị xây dựng mua vật liệu xây dựng giải phóng mặt bằng. Khi đoạn xây dựng
kết thúc bên thi công thường vay thế chấp dài hạn để thanh toán cho các
khoản vay ngắn hạn. Trong thực tế, chỉ khi công ty xây dựng chắc chắn có
một khoản cam kết vay dài hạn để tiếp tục dự án thì ngân hàng mới cho phép
được vay trong ngắn hạn.
Cho vay kinh doanh chứng khoán : những người kinh doanh chứng khoán
chính phủ và chứng khoán tư nhân cần sự hỗ trợ của ngân hàng để mua chứng
khoán mới và duy trì danh mục đầu tư chứng khoán hiện có cho tới khi chứng
khoán này được bán hoặc đến hạn thanh toán. Các ngân hàng lớn nhất thường
sẵn sàng cho vay đối với người kinh doanh chứng khoán. Vì những khoản vay
này có chất lượng cao thường được bảo đảm bằng chứng khoán chính phủ mà
kinh doanh mà nhà kinh doanh chứng khoán nắm giữ. Hơn nữa nhiều khoản
vay chứng khoán có kỳ hạn rất ngắn chỉ là khoản vay qua đêm hoặc vài ngày,
nhờ vậy ngân hàng có khả năng nhanh chóng thu hồi vốn hặc cho vay với
khoản vay mới với lãi suất cao hơn nếu lãi suất thị trường trở nên căng thẳng.
Một hình thức tín dụng ngân hàng khách thuộc lãi này là tổ chức cho vay
đối với các tỏ chức đầu tư, hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh và phát hành trái
phiếu, cổ phiếu công ty và giấy nợ của chính phủ. Việc bảo lãnh phát hành
chứng khoán thường diến ra khi ngan hàng tiến hành vào ki ngân hàng giúp
đỡ công ty tiến hành mua công ty, khi công ty phát hành chứng khoán, phát
hành thêm cổ phiếu để tăng quy mô vốn kinh doanh của doanh nghiệp thực
hiện đầu tư kinh doanh mới. khi ngân hàng bán chứng khoán mới cho các nhà
đầu tư chứng khoán mới trên thị trường thì các khoản vay cũng đựơc hòan trả.
Cho vay kinh doanh bán lẻ : các ngân hàng hỗ trợ người tiêu dùng trong
việc cho vay trả góp xe máy trong đó đồ dùng gia đình nôi thất và các hàng
hóa lâu bền khác bằng cách tài trợ cho các khoản thu mà người bán những
hàng hóa này sẽ được thanh toán sau khi họ ký hợp đồng bán hàng trả góp.
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
11
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
Hợp đồng trả góp sẽ được ngân hàng của người bán lẻ xem xét. Nếu đáp ứng
được các yêu cầu tín dụng ngân hàng sẽ mua những hợp đồng này với một
mức lãi suất hợp lý thay đổi tùy theo chất lượng tín dụng của người vay vốn,
chất lượng của vật thấp chấp và thời hạn của mỗi khoản cho vay.
Đối với những khoản cho vay mô tô , ti vi, đồ nội thất và các hàng hóa
lâu bên khác ngân hàng có thể đồng ý tài trợ thông qua việc xác nhận tài trợ
toàn bộ dự trữ hàng tồn kho thông qua việc xây dựng kế hoặch sàn.ngân hàng
có thể đồng ý cấp tín dụng cho người bán lẻ để người bán lẻ nhận hàng của
các tổ chức sản xuất chuyển hàng. Lúc đầu hầu hết các khoản cho vay như
vậy có kỳ hạn 90 ngày và sau đó có thể được tái hạn với thời gian là môt
tháng hoặc vài tháng. Để có được khỏan tín dụng này người bán lẻ phải có
hợp đồng đảm bảo an toàn cho phép ngân hàng có quyền sở hữu hàng hóa
trong trường hợp họ không thẻ thanh toán được khoản vay. Sau đó người sản
xuất có thể chuyển hàng cho người bán lẻ và gửi hóa đơn đến thanh toán cho
nhân viên ngân hàng. Định kỳ ngân hàng sẽ cử cán bộ tới kiểm tra hàng trong
kho của nguời bán lẻ để xác định lượng hàng hóa trong kho của người bán lẻ
để xác định lượng hàng đã bán và lượng hàng tồn kho. Sau khi bán người bán
sẽ gửi séc đến thanh toán cho khoản vay.
Cho vay trên tài sản : trong những năm gần đây, các khoản cho vay trên
tài sản là khỏan tín dụng được đảm bảo bằng các tài sản ngắn hạn của các
hãng, được dự tính sẽ chuyển thành các khoản tiền mặt trong tương lai ngày
càng chiếm tý trọng lớn tropng tổng cho vay ngắn hạn. Tài sản đảm bảo cho
các khoản vay bao gồm các khoản phải thu, nguyên liệu vật liệu hoặc thành
phẩm tồn kho. Đối với hầu hết các khoản vay dựa trên tài sản doanh nghiệp
vẫn có quyền sở hữu trên tài sản. Tuy nhiên đôi khi quyền sở hữu vẫn chuyển
ra cho ngân hàng để hạn chế một số rủi ro khi một số khoản nợ phải chuyển
sang cho ngân hàng để hạn chế rủi ro khi có một số khoản nợ không được
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
12
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
thanh toán như dự tính.
Các khoản cho vay dài hạn :
Cho vay kinh doanh kỳ hạn: các khỏan cho vay kỳ hạn thường đựơc
dùng để tài trợ cho hoạt động đầu tư trung và dài hạn thường kéo dài hơn
một năm.
Như mua máy móc thiết bị hoặc xây dựng các công trình thường là các
hãng yêu cầu được vay một khoản trọng gói dựa trên chi phí của dự án đã đề
xuất và cam kết thanh toán khoản vay thành nhiều lần.
Do đó các khoản vay kỳ hạn sẽ được thanh toán thành nhiều lần trên cơ
sở dòng thu nhập của hãng. Nhìn chung kế hoặch kinh doanh thanh toán được
xây dựng phù hợp với chu trình lưu chuyển tiền tệ của hãng. Tuy nhiên vẫn
tồn tại những điểm mù mà tại đó hãng thiếu tiền mặt thanh toán. Một số thỏa
thuận không yêu cầu khách hàng trả tiền gốc trước đến khi hết hạn.
Thông thường các khoản vay được đảm bảo bẳng tài sản cố định thuộc
sở hữu của người vay có thể chịu lãi suất cố định hoặc thả nổi. do rủi ro lãi
suất lớn, lãi suất trong trường hợp này được cao hơn mức áp dụng với các
khoản vay ngăn hạn. Khả năng mất khả năng thanh toán hoặc khả năng xảy ra
những bất lợi trong hoạt động kinh doanh của người vay rõ ràng là cao hơn.
Vì lý do này cán bộ tín dụng và những nhà phân tích tín dụng phải chý ý đến
một số yếu tố khác nhau trong đơn xin cho vay vốn dài hạn.
Cho vay luân chuyển : một khoản vay luân chuyển cho phép khách hàng
có thể vay tới một mức tối đa xác định trước, hoàn trả toàn bộ hoặc một phần
khoản cho vay và tiếp tục như vây cho đến khi đến hết hạn.
Là một trong những khoản cho vay kinh doanh linh hoạt nhất yêu cầu tín
dụng linh họat được ngân hàng chấp nhận mà không đòi hỏi bảo đảm bằng bất
cứ bằng tài sản đảm bảo nào. Có khoản cho vay như vậy có thể là ngắn hạn
hoặc kéo dài ba hoặc bốn năm. Loại hình tín dụng này khi khách hàng không
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
13
B¶n th¶o chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
chắc chắn về thời gian của các luồng tiền mặt hoặc về quy mô của việc vay
vốn trong tương lai. Tín dụng luân chuyển giúp hãng có giảm biến động trong
quá trình kinh doanh khi mà doanh số bán hàng giảm cho phép hoàn trả khi
nguồn thu của tín dụng tăng lên. Ở nơi mà pháp luật quy định về việc ngân
hàng phải chấp nhận mọi yêu cầu cho vay vốn tron giới hạn của hạn mức tín
dụng thì ngân hàng thường tính phí cam kết trên phần tín dụng không sử dụng
hoặc trên toàn bộ giá trị hợp đồng cho cam kết.
Cam kết vay vốn thường có ba loại loại phổ biến là cam kết vay vốn
chính thức là cam kết có tính chất hợp đồng trong đó ngân hàng đảm bảo sẽ
cho khách hàng vay với mức vốn tối đa xác định trước với lãi suất thả nổi.
Đối với loại cam kết này ngân hàng có thể không thực hiện nghĩa vụ này nếu
tình hình tài chính của người cho vay có những tổn hại nghiêm trọng hoặc
người đi vay không thực hiện các điều khỏan trong hợp đồng. loại thứ hai ít
chặt chẽ hơn đó là hạn mức tín dụng là hạn mức tín dụng đảm bảo theo đó
ngân hàng có thể cho khách hàng vay trong trường hợp khẩn cấp. Mặc dù lãi
suất không được ấn định trước và có ít khách hàng lựa chọn phương thức vay
vốn này nhưng họ vẫn ký kết hợp đồng như một tài sản đảm bảo để vay vốn
từ những người khác. Ngân hàng chỉ dành tín dụng nới lỏng cho những tổ
chức có uy tín cao nhất và thường định giá thấp hơn nhiều so với cam kết cho
vay chính thức. Cam kết này cho phép khách hàng nhận được tiền vay đây là
một điểm quan trọng nếu như khách hàng muốn vay từ tổ chức tín dung khác.
Cho vay dự án dài hạn : loại hình cho vay kinh doanh có mức độ rủi ro
cao nhất là cho vay dự án. Đây là khoản tín dụng tài trợ cho việc xây dựng
các tài sản cố định được dự tính mang lại thu nhập trong tương lai. Một số ví
dụ đáng chú ý bao gồm xây dựng nhà máy lọc dầu lắp đặt đường ống dẫn dầu
xây dựng lắp đặt nhà máy năng lượng các phương tiện bốc dở tại cảng hàng.
Nguyễn Văn Đức Ngân hàng 47A
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét