Ứng dụng công nghệ sinh thái trong khôi phục tài nguyên đất
Trang 5
2. TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẤT
2.1. Tổng quan về đất
2.1.1. Khái niệm.
Đất hay thổ nhưỡng là lớp ngoài cùng của thạch quyển bị biến đổi tự nhiên dưới
tác động tổng hợp của nước, không khí, sinh vật.
Các thành phần chính của đất là chất khoáng, nước, không khí, mùn và các loại
sinh vật từ vi sinh vật cho đến côn trùng, chân đốt v.v
Đất có cấu trúc hình thái rất đặc trưng, xem xét một phẫu diện đất có thể thấy sự
phân tầng cấu trúc từ trên xuống dưới như sau:
- Tầng thảm mục và rễ cỏ được phân huỷ ở mức độ khác nhau.
- Tầng mùn thường có màu thẫm hơn, tập trung các chất hữu cơ và dinh dưỡng
của đất.
- Tầng rửa trôi do một phần vật chất bị rửa trôi xuống tầng dưới.
- Tầng tích tụ chứa các chất hoà tan và hạt sét bị rửa trôi từ tầng trên.
- Tầng đá mẹ bị biến đổi ít nhiều nhưng vẫn giữ được cấu tạo của đá.
- Tầng đá gốc chưa bị phong hoá hoặc biến đổi.
Mỗi một loại đất phát sinh trên mỗi loại đá, trong điều kiện thời tiết và khí hậu
tương tự nhau đều có cùng một kiểu cấu trúc phẫu diện và độ dày.
Thành phần khoáng của đất bao gồm ba loại chính là khoáng vô cơ, khoáng hữu
cơ và chất hữu cơ. Khoáng vô cơ là các mảnh khoáng vật hoặc đá vỡ vụn đã và đang bị
phân huỷ thành các khoáng vật thứ sinh. Chất hữu cơ là xác chết của động thực vật đã và
đang bị phân huỷ bởi quần thể vi sinh vật trong đất.Ngoài các loại trên, nước, không khí,
các sinh vật và keo sét tác động tương hỗ với nhau tạo thành một hệ thống tương tác các
vòng tuần hoàn của các nguyên tố dinh dưỡng nitơ, phôtpho, v.v
Các nguyên tố hoá học trong đất tồn tại dưới dạng hợp chất vô cơ, hữu cơ có hàm
lượng biến động và phụ thuộc vào quá trình hình thành đất. Thành phần hoá học của đất
và đá mẹ ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành đất có quan hệ chặt chẽ với nhau. Về
sau, thành phần hoá học của đất phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của đất, các quá trình
hoá, lý, sinh học trong đất và tác động của con người.
2.1.2. Thành phần vật chất của đất
Đất do các hạt đất tạo nên các hạt đất tự sắp xếp thành khung cốt đất có nhiều lỗ
rỗng,trong lỗ rỗng thường chứa nước và không khí. Đất gồm 3 thành phần vật chất hợp
thành: thể rắn gồm các hạt đất làm chủ thể, thể lỏng (nước) và thể khí (không khí).
- Nếu đất khô tức trong lỗ rỗng không có nước, đất khô gồm 2 thể: rắn và khí.
- Nếu đất bảo hòa nước, tức lỗ rỗng chứa đầy nước, gồm 2 thể: rắn và lỏng.
- Nếu đất ẩm ướt không bảo hòa nước thì đất gồm 3 thể: rắn,lỏng ,khí.
Về định lượng, hạt đất và nước trong nước thường có một tỉ lệ nào đó tùy thuộc điều kiện
tạo thành và tồn tại của đất trong thiên nhiên.
2.1.3. Thành phần khoáng vật hạt đất.
Thành phần khoáng vật hạt đất phụ thuộc thảnh phần khoáng vật tạo đá và tác
dụng phong hóa đá. Tác dụng phong hóa khác nhau sẽ sản sinh các khoáng vật khác nhau
ngay cả khi tác dụng phong hóa trên cùng một loại đá gốc.
Ứng dụng công nghệ sinh thái trong khôi phục tài nguyên đất
Trang 6
Thành phần khoáng vật hạt đất gồm 3 loại: khoáng vật nguyên sinh,khoáng vật thứ
sinh, chất hóa hợp hữu cơ.
- Khoáng vật nguyên sinh thường gặp là fenpat, thạch anh, mica.Các hạt đất có
thành phần khoáng vật nguyên sinh thường có kích thước lớn, lớn hơn
0.005mm.
- Khoáng vật thứ sinh chia làm 2 loại:
Khoáng vật không hòa tan trong nước, thường gặp là kaolinit, ilit,
monmorilonit, chúng là thành phần chủ yếu của hạt sét trong đất nên còn
được gọi là khoáng vật sét.
Khoáng vật hòa tan trong nước thường gặp là canxit, dolomite, mica trắng,
thạch cao, muối mỏ. Các khoáng vật thứ sinh có kích thước rất nhỏ, nhỏ
hơn 0,005mm
- Chất hóa hợp hữu cơ là sản phẩm được tạo ra từ di tích thực vật và động vật.Ở
giai đoạn phá hủy hoàn toàn , sản phẩm này được gọi là mùn hữu cơ.
Kích thước hạt đất có quan hệ mật thiết với thành phần khoáng vật:
Hạt đất lớn hơn hạt cát (lớn hơn 2mm) có thành phần khoáng vật tương tự
đá gốc.
Hạt cát (2÷ 0,05mm) do khoáng vật nguyên sinh tạo thành.
Hạt bụi (0,05÷0,005mm) do khoáng vật nguyên sinh đã ổn định về mặt hóa
học như thạch anh,fenpat,mica trang tao thành.
Hạt sét(<0,005mm) chủ yếu do khoáng vật thứ sinh tạo thành,gồm các
khoáng vật sét như kaolinit,ilit,monmorilonit.
2.1.4. Thể khí của đất
Nếu các lỗ rỗng của đất không chứa đầy nước thì khí sẽ chiếm những chỗ còn lại
đó. Căn cứ ảnh hưởng của khí đến tính chất cơ học của đất, có thể phân thể khí trong đất
thành hai loại:
Loại thông với khí quyển
Loại không thông với khí quyển
Khí thông với khí quyển không ảnh hưởng gì đáng kể đến tính chất của đất.
Khí không thông với khí quyển, thường thấy trong đất dính. Chủ yếu là đất sét. Sự
hình thành loại khí này có liên quan đến đường rỗng chằng chịt trong đất.
Sự tồn tại khí kín trong đất dính có ảnh hưởng lớn tới tính chất cơ học của đất. Do
có khí kín nên trong đất hình thành ranh giới giữa nước và bọc khí.Vì vậy sinh ra lưc
căng mặt ngoài,hoặc áp lưc mao dẫn. Sự tồn tại của các bọc khí còn làm giảm tính thấm
của đất, làm tăng tính đàn hồi và ảnh hưởng đến quá trình ép co của đất dưới tác dụng của
lưc ngoài.
2.1.5. Quá trình hình thành đất:
Sự hình thành đất là một quá trình lâu dài và phức tạp, có thể chia các quá trình
hình thành đất thành ba nhóm: Quá trình phong hoá, quá trình tích luỹ và biến đổi chất
hữu cơ trong đất, quá trình di chuyển khoáng chất và vật liệu hữu cơ trong đất. Tham gia
vào sự hình thành đất có các yếu tố: Đá gốc, sinh vật, chế độ khí hậu, địa hình, thời gian.
Các yếu tố trên tương tác phức tạp với nhau tạo nên sự đa dạng của các loại đất trên bề
Ứng dụng công nghệ sinh thái trong khôi phục tài nguyên đất
Trang 7
mặt thạch quyển. Bên cạnh quá trình hình thành đất, địa hình bề mặt trái đất còn chịu sự
tác động phức tạp của nhiều hiện tượng tự nhiên khác như động đất, núi lửa, nâng cao và
sụt lún bề mặt, tác động của nước mưa, dòng chảy, sóng biển, gió, băng hà và hoạt động
của con người.
2.2. Hiện trạng môi trường đất:
2.2.1. Dân số và tài nguyên đất:
Hàng năm trên thế giới diện tích đất canh tác bị thu hẹp, kinh tế nông nghiệp trở
nên khó khăn hơn. Hoang mạc hoá hiện đang đe doạ 1/3 diện tích trái đất, ảnh hưởng đời
sống ít nhất 850 triệu người. Một diện tích lớn đất canh tác bị nhiễm mặn không canh tác
được một phần cũng do tác động gián tiếp của sự gia tăng dân số. Ở Việt Nam từ năm
1978 đến nay, 130.000 ha bị lấy cho thủy lợi, 63.000 ha cho phát triển giao thông, 21 ha
cho các khu công nghiệp.
2.2.2. Suy giảm tài nguyên đất:
- Theo số liệu của viện tài nguyên thế giới năm 1993 quỹ đất của tòan thế giới
khoảng 13 tỉ ha
- Mật độ dân số 43 người/km
2
- Một số nước có quỹ đất hạn hẹp như Hà Lan, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Ấn Độ,
Singapore (chỉ 0,3ha/người)
- Diện tích nước ta là trên 33 triệu ha đứng thứ 55 trên 200 nước, diện tích bình
quân đầu người khỏang 0,4ha
- Quỹ đất trồng trọt tăng không đáng kể trong khi dân số tăng nhanh nên diện
tích đất trên đầu ngừơi ngày càng giảm
- Đất ngày bị sa mạc hóa, bạc màu… do sự khai thác của con người
2.2.3. Tài nguyên đất ở Việt Nam:
Diện tích Việt Nam là 33.168.855 ha, đứng thứ 59 trong hơn 200 nước trên thế
giới.
Đất bằng ở Việt Nam có khoảng >7 triệu ha, đất dốc >25 triệu ha. Lớn hơn 50%
diện tích đất đồng bằng và gần 70% diện tích đất đồi núi là đất có vấn đề, đất xấu và có
độ phì nhiêu thấp, trong đó đất bạc màu gần 3 triệu ha, đất trơ sỏi đá 5,76 triệu ha, đất
mặn 0,91 triệu ha, đất dốc trên 25
o
gần 12,4 triệu ha.
Bình quân đất tự nhiên theo đầu người là 0,4 ha. Theo mục đích sử dụng năm
2000, đất nông nghiệp 9,35 triệu ha, lâm nghiệp 11,58 triệu ha, đất chưa sử dụng 10 triệu
ha (30,45%), chuyên dùng 1,5 triệu ha. Đất tiềm năng nông nghiệp hiện còn khoảng 4
triệu ha. Bình quân đất tự nhiên ở Việt Nam là 0,6 ha/người. Bình quân đất nông nghiệp
theo đầu người thấp và giảm rất nhanh theo thời gian, năm 1940 có 0,2 ha, năm 1995 là
0,095 ha. Đây là một hạn chế rất lớn cho phát triển. Đầu tư và hiệu quả khai thác tài
nguyên đất ở Việt Nam chưa cao, thể hiện ở tỷ lệ đất thuỷ lợi hoá thấp, hiệu quả dùng đất
thấp, chỉ đạt 1,6vụ/năm, năng suất cây trồng thấp, riêng năng suất lúa, cà phê và ngô đã
đạt mức trung bình thế giới.
Suy thoái tài nguyên đất Việt Nam bao gồm nhiều vấn đề và do nhiều quá trình tự
nhiên xã hội khác nhau đồng thời tác động. Những quá trình thoái hoá đất nghiêm trọng ở
Việt Nam là:
Ứng dụng công nghệ sinh thái trong khôi phục tài nguyên đất
Trang 8
- Xói mòn rửa trôi bạc màu do mất rừng, mưa lớn, canh tác không hợp lý, chăn
thả quá mức. Hơn 60% lãnh thổ Việt Nam chịu ảnh hưởng của xói mòn tiềm
năng ở mức >50 tấn/ha/năm;
- Chua hoá, mặn hoá, phèn hoá, hoang mạc hoá, cát bay, đá lộ đầu, mất cân bằng
dinh dưỡng, Tỷ lệ bón phân N : P2O5 : K2O trung bình trên thế giới là 100 :
33 : 17, còn ở Việt Nam là 100 : 29 : 7, thiếu lân và kali nghiêm trọng. Việt
Nam phấn đấu đến 2010 đất nông nghiệp sẽ đạt 10 triệu ha, trong đó có 4,2 -
4,3 triệu ha lúa, 2,8 - 3 triệu ha cây lâu năm, 0,7 triệu ha mặt nước nuôi trồng
thuỷ sản, đảm bảo cung ứng 48 - 55 triệu tấn lương thực (cả màu); Đất lâm
nghiệp đạt 18,6 triệu ha (50% độ che phủ), trong đó có 6 triệu ha rừng phòng
hộ, 3 triệu ha rừng đặc dụng, 9,7 triệu ha rừng sản xuất; Cảnh quan tự nhiên
(chủ yếu là sông, suối, núi đá, ) còn 1,7 triệu ha.
2.3. Công nghệ sinh thái trong môi trường đất
2.3.1. Các khái niệm
Công nghệ sinh học trong môi trường đất là sự kết hợp về mặt nguyên lý của nhiều
ngành khoa học và kỹ thuật để sử dụng khả năng sinh hóa to lớn của các vi sinh vật, thực
vật hay một phần cơ thể của những sinh vật này để phục hồi, bảo vệ môi trường đất và sử
dụng bền vững nguồn tài nguyên đất.
Việc nghiên cứu về địa sinh học luôn gắn liền mật thiết với thủy sinh học. Đây là
hai môi trường có mối quan hệ gắn bó tác động qua lại lẫn nhau. Muốn áp dụng các biện
pháp sinh học nhằm cải tạo môi trường đất phải hiểu rõ những tác động của môi trường
thủy sinh lên các biện pháp đang dùng nhằm thu được hiệu quả mà không gây tác hại đến
môi trường.
2.3.2. Một số phương pháp xử lý ô nhiễm đất bằng phương pháp vi sinh.
Ứng dụng công nghệ sinh thái trong khôi phục tài nguyên đất
Trang 9
Kỹ thuật cấp khí (Bioventing)
Kỹ thuật trải đất có che mái và hệ thống xử lý khí
Kỹ thuật đống ủ
Tách nước
giếng mở-
khí vàoớ
khí vào
Giếng hút
khí vào
Tách nước
Tách khí
Xử lí khí
Đất không
ô nhiễm
Đất ô nhiễm
Mái che chống thoát khí
Hệ thống xử lí khí
(chất ô nhiễm bay hơi)
Đất ô
nhiễm
Hệ thống
tưới
Đường
thoát nước
Ứng dụng công nghệ sinh thái trong khôi phục tài nguyên đất
Trang 10
Bao phủ bằng
lớp nhựa PE
Lấy
mẫu
Bao phủ bằng
lớp nhựa PE
Đất ô
nhiễm
Nhìn mặt trước
Nhìn mặt sau
ụ sỏi
van
Đất nền
sạch
ống thông gió
Lớp PVC trơn
ống khoan thông gió
Bể tích lũy
Bơm chất lỏng
Than hoạt hóa
Van đồng hay
PVC
Ứng dụng công nghệ sinh thái trong khôi phục tài nguyên đất
Trang 11
Kỹ thuật trải đất có che mái
Kỹ thuật trải đất
Lớp đất ô nhiễm
Lớp cát
Hệ thống tưới
Đường thoát nước
Lớp vật liệu đá sỏi hoặc xây xi măng
Ứng dụng công nghệ sinh thái trong khôi phục tài nguyên đất
Trang 12
Kỹ thuật Bùn nhão
3. CÁC CÔNG NGHỆ SINH THÁI ĐƯỢC ỨNG DỤNG ĐỂ KHÔI PHỤC TÀI
NGUYÊN ĐẤT
3.1. Khả năng tự làm sạch của đất:
3.1.1. Định nghĩa:
Là khả năng tự điều tiết trong hoạt động của môi trường thông qua một số cơ chế đặc
biệt để gỉam thấp ô nhiễm từ bên ngoài để tự làm sạch, để loại trừ, biến chất độc thành
không độc.
Khả năng này tại môi trường đất cao hơn môi trường nước, không khí. Vì vậy mà môi
trường đất được giữ lâu hơn, ít độc hơn. Các nhà môi trường, kể cả kỹ sư hay quản lý,
đều cần nắm vững vấn đề khả năng tự làm sạch của đất để tính tóan xử lý ô nhiễm cũng
như quản lý trong từng trường hợp cụ thể.
3.1.2. Điều kiện để khả năng tự làm sạch phát huy tác dụng:
Bản chất của môi trường sinh thái là khả năng tự làm sạch, tuy nhiên mức độ tự làm
sạch phụ thuộc vào các yếu tố sau đây.
- Số lượng và chất lượng hạt keo trong đất. Càng nhiều hạt keo, mà hạt keo mùn
càng nhiều thì khả năng tự làm sạch càng cao vì tổng lượng cation trao đổi chất
sẽ lớn.
- Đất nhiều mùn mà chủ yếu là mùn nhuyễn giàu acid humic tốt hơn acid fulvic,
tốt hơn đất sét và tốt hơn đất cát.
- Tình trạng hiện tại của môi trường đất chưa bị ô nhiễm hay bị ô nhiễm ít thì
khả năng tự làm sạch sẽ cao.
- Sự thóat nước và giữ hơi ẩm tốt thì khả năng tự làm sạch sẽ cao.
Bể trộn bùn/ rửa đất
Bể 1
Trộn
Bề 2
Sàng hạt mịn
Bể 3
Tạo bùn
Sàng đất thô
Bể phản
ứng
Bể
tách
nước
Thêm: Nước
Dinh dưỡng
Chất tạo bọt
Chất ổn định
Cung cấp khí
Đất,
bùn đã
xử lý
Ứng dụng công nghệ sinh thái trong khôi phục tài nguyên đất
Trang 13
- Cấu trúc đất tốt, chủ yếu là cấu trúc dạng hạt hoặc dạng viên tốt hơn cấu trúc
dạng tảng, cục hay mất cấu trúc.
- Vi sinh vật càng giàu về số lượng, chủng loại cùng với điều kiện môi trường
cho nó hoạt động, nhiệt độ 30 – 35
o
C, độ ẩm từ 70 – 80% thì khả năng tự làm
sạch lớn (tất nhiên là ít vi sinh vật gây bệnh).
- Khả năng oxy hóa tốt, chưa bị nhiễm mặn, phèn, lầy thụt, yếm khí, nghĩa là đất
trung tính có khả năng loại cả H
+
, OH
-
, và chất độc khá cao. Đất chua chỉ có
khả năng tự làm sạch cao với chất ô nhiễm có tính kiềm. Đất mặn có khả năng
tự làm sạch cao với chất ô nhiễm có tính acid.
Để đặc trưng cho khả năng tự làm sạch của môi trường đất, người ta xuất cách tính
như một hàm số:
P = k.M.N – p.T.H.V
P: khả năng tự làm sạch
M: số lượng keo
N: loại keo đất
p: pH đất
T: thành phần cơ giới
H: hiện trạng (sạch, hơi bẩn, bẩn vừa, rất bẩn)
V: khả năng vi sinh vật (loại, số lượng)
- Các chất thải không quá lớn, thành phần không quá phức tạp, khó phân giải thì
khả năng tự làm sạch của đất sẽ phát huy tác dụng cao.
3.1.3. Giới hạn của khả năng tự làm sạch:
Mỗi khả năng đều có giới hạn của nó. Khả năng tự làm sạch của môi trường sinh thái
đất cũng vậy. Giới hạn này phụ thuộc vào:
- Điều kiện của môi trường như nhiệt độ, độ ẩm, gió, ánh sáng, độ mặn, độ
phèn,…
- Tính đệm của đất.
- Khả năng hấp phụ.
- Lượng vi sinh vật.
- Hạt keo, số lượng và chủng loại keo.
- Thành phần cơ giới đất.
- Nồng độ các chất gây ô nhiễm; nếu vượt quá nồng độ nào đó (ngưỡng tự làm
sạch) thì môi trường đất sẽ trở nên bất lực. Mặt khác, cấu trúc phân tử và bản
chất ô nhiễm mang đặc thù và trơ với đất thì khả năng tự làm sạch sẽ rất thấp.
Mỗi loại môi trường sinh thái đất có “ngưỡng tự làm sạch riêng”, vượt quá ngưỡng
này coi như khả năng tự làm sạch không còn nữa.
Môi trường đất có khả năng tự làm sạch cao hơn môi trường nước và không khí do
môi trường đất có hạt keo đất có đặc tính tích điện, tỷ lệ hấp phụ lớn, khả năng trao đổi
ion và hấp phụ chúng lớn mà môi trường nước và không khí không có. Xong một khi ô
nhiễm vượt quá khả năng tự làm sạch thì tình trạng ô nhiễm càng trở nên nặng nề gấp
bội. Lúc đó, khả năng lan truyền ô nhiễm từ trong môi trường đất trong nước thổ nhưỡng
sang nước mặt, nước ngầm và khuyếch tán vào trong không khí rất nhanh. Tác hại vì thế
mà tăng lên đột ngột, rất nghiêm trọng.
Ứng dụng công nghệ sinh thái trong khôi phục tài nguyên đất
Trang 14
3.2. Xử lý ô nhiễm môi trường đất nông nghiệp:
3.2.1. Nguyên nhân ô nhiễm:
Có nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất nông nghiệp nhưng chủ yếu là do
những nguyên nhân sau đây:
- Nhiễm phèn: do nước phèn tự một nơi khác di chuyển đến. Chủ yếu là nhiễm
Fe
2+
, Al
3+
, SO
4
2-
. pH môi trường giảm gây ngộ độc cho con người trong môi trường
đó.
- Nhiễm mặn: do muối trong nước biển, nước triều hay từ các mỏ muối,…
nồng độ áp suất thẩm thấu cao gây hạn sinh lí cho thực vật
- Gley hóa trong đất sinh ra nhiều chất độc cho sinh thái (CH
4
, N
2
O, CO
2
,
H
2
S. FeS, )
- Chất thải nông nghiệp:
+ Phân và nước tiểu động vật
+ Sử dụng dư thừa các sản phẩm hóa học như phân bón hóa học, chất kích
thích sinh trưởng, thuốc trừ sâu, trừ cỏ, tồn tại lâu trong đất, tích tụ sinh học, thay đổi
cân bằng sinh học giữa đất và cây trồng
+ Lan truyền từ môi trường đã ô nhiễm (không khí, nước), từ xác bã thực,
động vật
Lý do chính gây ô nhiễm chính là do nền nông nghiệp ngày nay:
Ô nhiễm đất xảy ra chủ yếu ở nông thôn. Trước hết là do sự bành trướng của
kỹ thuật canh tác hiện đại. Nông nghiệp hiện nay phải sản xuất một lượng lớn thức ăn
trong khi đất trồng trọt tính theo đầu người ngày càng giảm vì dân số gia tăng và
cũng vì sự phát triển thành phố, kỹ nghệ và những sử dụng phi nông nghiệp. Người ta
cần phải thâm canh mạnh hơn, dẫn tới việc làm xáo trộn dòng năng lượng và chu
trình vật chất trong hệ sinh thái nông nghiệp.
Phân bón hóa học chắc chắn đã gia tăng năng suất, nhưng việc sử dụng lặp lại,
với liều rất cao gây ra sự ô nhiễm đất do các tạp chất lẫn vào. Hơn nữa Nitrat và
Phosphat rải một cách dư thừa sẽ chảy theo nước mặt và làm ô nhiễm các mực thủy
cấp. Cũng thế, nông dược vô cơ hay hữu cơ cũng có thể làm ô nhiễm đất và sinh
khối.
Trong nhiều hóa chất sử dụng trong nông nghiệp, người ta có thể phân biệt các
chất khoáng (vô cơ) và các chất hữu cơ tổng hợp. Chúng là các chất gây ô nhiễm
thượng nguồn của đất trồng. Nhưng sự gián đoạn của chu trình vật chất trong các hệ
sinh thái nông nghiệp hiện đại còn gây một ô nhiễm ở hạ nguồn nơi một số đất đai.
Thật vậy, các núi rác khổng lồ có nguồn gốc nông nghiệp, sản phẩm do sự khai thác
hay sự tiêu thụ sản lượng động vật và thực vật thì được thấy ở tất cả các nước công
nghiệp hóa. Các chất này không quay trở lại ruộng đồng, khác với lối canh tác cổ
truyền. Chúng không bị tái sinh nhưng chất đống ở bãi rác với sự lên men hiếm khí
tạo ra các hợp chất S và N độc, làm cho ô nhiễm đất gia tăng.
Thâm canh không ngừng của nông nghiệp, sử dụng ngày càng nhiều các chất
nhân tạo (phân hóa học, nông dược ) làm cho đất ô nhiễm tuy chậm nhưng chắc,
không hoàn lại (irreversible), đất sẽ kém phì nhiêu đi.
3.2.1.1. Ô nhiễm do phân hóa học:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét