Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Chứng khoán Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội

thời, do hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán nên cũng có những đặc điểm
khác biệt hơn so với các loại hình kinh doanh khác.
- Phần lớn tài sản là tài sản tài chính
Tài sản của các CTCK phần lớn đều là tài sản tài chính. Ngoài một
phần rất nhỏ để đầu tư vào cơ sở vật chất, phần lớn tài sản còn lại của CTCK
là chứng khoán. Những chứng khoán này hình thành chủ yếu từ hoạt động tự
doanh và bảo lãnh phát hành. Nét đặc trưng của các loại tài sản tài chính này
là giá trị của chúng thường xuyên biếtn động trên thị trường. Sự biến động
này tất yếu tạo ra những rủi ro tiềm tàng trong hoạt động của các CTCK. Để
giảm thiểu rủi ro này, các chứng khoán trong tài sản của CTCK phải có tính
thanh khoản rất cao.
- Sản phẩm dễ bị bắt chước
Sản phẩm của các CTCK là các sản phẩm dịch vụ tài chính. Đặc điểm
của loại hình sản phẩm đặc biệt này là không có hình thái vật chất, mức độ
kết tinh chất xám cao, rất khó tạo ra sản phẩm mới song lại dễ dàng bị bắt
chước. Vì vậy để tồn tại và phát triển, các CTCK phải không ngừng cải tiến
dịch vụ, liên tục tạo ra các sản phẩm mới cũng như học hỏi đối thủ cạnh tranh
để hoàn thiện nghiệp vụ của mình, nâng cao chất lượng dịch vụ.
- Có khả năng xảy ra xung đột lợi ích
Trong lĩnh vực chứng khoán, lợi ích cá nhân của các nhân viên kinh
doanh hoặc lợi ích của CTCK có thể mâu thuẫn với lợi ích của các khách
hàng mà CTCK cam kết phục vụ dẫn tới những xung đột lợi ích. Nếu không
được kiểm soát chặt chẽ, CTCK cũng như các nhân viên kinh doanh của công
ty có thể lợi dụng những đặc thù trong hoạt động của mình để trục lơi, gây
thiệt hại cho khách hàng. Vì vậy cần áp dụng những nguyên tắc đạo đức nghề
nghiệp để ngăn chặn các xung đột lợi ích này.
- Mức độ chuyên môn hoá cao
5
Các bộ phận của CTCK như Môi giới, Tự doanh và Bảo lãnh phát hành
chứng khoán thường được tổ chức độc lập, không phụ thuộc lẫn nhau và được
chuyên môn hoá ở mức độ rất cao. Vì vậy mà việc quản lý các hoạt động của
công ty có sự phân cấp rõ rệt, các bộ phận có quyền độc lập trong quyết định.
- Là doanh nghiệp hoạt động có điều kiện
Do tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của các CTCK trên thị trường tài
chính là rất lớn, nên tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải đặt ra những rào
cản đối với các doanh nghiệp muốn tham gia vào hoạt động trong lĩnh vực
này. Thông thường đó là những yêu cầu về vốn điều lệ, về đội ngũ cán bộ
(kiến thức, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, mức độ tín nhiệm, tính trung
thực và có giấy phép hành nghề), và các quy định tối thiểu về cơ sở vật chất.
Thêm vào đó, trong quá trình hoạt động, CTCK luôn chịu sự giám sát chặt
chẽ vởi cơ quan quản lý nhà nước (ở Việt Nam là Uỷ ban chứng khoán nhà
nước)
1.1.2. Vai trò, chức năng của các công ty chứng khoán
1.1.2.1. Chức năng của các công ty chứng khoán
CTCK có các chức năng chính sau
- Cung cấp cơ chế huy động vốn: thông qua hoạt động mua bán chứng
khoán, thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành trên thị trường các công
ty chứng khoán tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi
đến người cần sử dụng nguồn vốn đó một cách nhanh chóng và hiệu quả.
- Cung cấp cơ chế giá cả cho chứng khoán: TTCK là nơi gặp gỡ giữa
những người cần vốn và người có vốn nhàn rỗi để đầu tư vào chứng khoán.
Hai chủ thể này gặp nhâu trên TTCK thông qua hệ thống khớp lệnh hoặc
khớp giá để xác định giá giao dịch. Các CTCK đã giúp người bán gặp được
người mua một cách nhanh chón và hiệu quả, tiết kiệm được thời gian cũng
như chi phí cho cả 2 bên
6
- Cung cấp cơ chế chuyển ra tiền mặt cho nhà đầu tư, tạo ra tính thanh
khoản cho các chứng khoán
- Các CTCK thông qua hoạt động tự doanh hoặc vai trò của nhà tạo lập
thị trờng (market maker) gớp phần điều tiết và bình ổn thị trường.
1.1.2.2. Vai trò của công ty chứng khoán
- Đối với các tổ chức phát hành
Mục tiêu khi tham gia vào TTCK của các tổ chức phát hành là huy
động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Một trong những
nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này
yêu cầu nhà đầu tư và nhà phát hành không được mua bán trực tiếp chứng
khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai
trò trung gian cho cả nhà phát hành và nhà đầu tư thông qua hoạt động bảo
lãnh phát hành, và như vậy CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các
nhà phát hành
Bên cạnh đó, các CTCK cung cấp cho doanh nghiệp các giải pháp tổng
hợp về tài chính công ty, cơ cấu lại doanh nghiệp, lập và đánh giá dự án, quản
lý tài sản và định hướng đầu tư.
- Đối với các nhà đầu tư
Đối với hàng hoá thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi
phí cho người mua và người bán nhứng đối với TTCK, sự biến động thường
xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho nhà
đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi
quyết định đầu tư. Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư,
CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu
quả các khoản đầu tư.
- Đối với TTCK
7
Thứ nhất, CTCK góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả là
do thị trường quyết định, nhưng để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và
người bán phải thông qua CTCK vì họ không được trực tiếp tham gia vào quá
trình mua bán. Với việc cung cấp cơ chế giá cả, CTCK góp phần đưa giá
chứng khoán phản ánh đúng cung cầu thị trường. Ngoài ra, CTCK cón thực
hiện vai trò ổn định thị trường, can thiệp để điều tiết giá cả. Vai trò này xuất
phát từ nghiệp vụ tự doanh, qua đó CTCK dành một tỷ lệ nhất định giao dịch
của mình (do luật pháp quy định) để thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
Thứ hai: các CTCK làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính.
Trên thị trường sơ cấp, do các CTCK thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành
nên giá chứng khoán đã được định giá phù hợp với thực trạng của tổ chức
phát hành và tình hình thị trường, vì vậy mà rút ngắn được thời gian phát
hành chứng khoán, giúp chứng khoán nhanh chóng được giao dịch Bên cạnh
đó, hoạt động môi giới và tư vấn của CTCK trên thị trường thứ cấp tạo nên
tính thanh khoản cho chứng khoán, làm cho chúng hấp dẫn hơn trong con mắt
nhà đầu tư.
- Đối với các cơ quan quản lý thị trường
Mục tiêu của các cơ quan quản lý, giám sát thị trường là đảm bảo giao
dịch an toàn và kiểm soát thị trường. Vì vậy, việc thông tin được cung cấp
cho các cơ quan quản lý một cách đầy đủ là vô cùng quan trọng. CTCK thực
hiện vai trò cung cấp thông tin về TTCK cho các cơ quan quản lý bởi họ vừa
là người phân phối các chứng khoán mới phát hành thông qua hoạt động bảo
lãnh phát hành và đại lý phát hành, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và
thực hiện các giao dịch trên thị trường. Các thông tin mà CTCK có thể cung
cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin về
các cổ phiếu, trái phiếu và tổ chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tư…
8
Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và
chống các hiện tượng thao túng và lũng đoạn thị trường.
1.1.3. Các hoạt động nghiệp vụ của công ty chứng khoán
1.1.3.1 Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong
đó một CTCK đại diên cho khách hàng tiến hành gío dịch thông qua cơ chế
giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách
hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Hoạt động môi giới là một trong những hoạt động quan trọng nhất của
công ty chứng khoán. Với chức năng trung gian kết nối người bán và người
mua, cung cấp những thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư, hoạt động môi
giới đã mang lại khoản phí không nhỏ cho CTCK. Tuy nhiên nhân viên môi
giới không được xúi dục mua, bán chứng khoán để hưởng hoa hồng mà phải
đưa ra những lời khuyên chân thành hạn chế rủi ro thấp nhất cho khách hàng.
Vì vậy nghề moi giới đòi hỏi những phẩm chất đạo đức và mẫn cán trong
công việc. Ngoài ra, nhân viên môi giới là người tiếp xúc với khách hàng
nhiều nhất và là bộ mặt của công ty. Khách hàng lựa chọn CTCK để tham gia
thị trường một phần là do hoạt động môi giới tại công ty đó như thế nào.
Chính vì vậy một nhà môi giới chuyên nghiệp cần có những yếu tố và kỹ
năng như: kỹ năng truyền đạt thông tin, kỹ nang tìm kiếm khách hàng, kỹ
năng khai thác thông tin. Các kỹ năng này giúp người môi giới định vị được
khách hàng và truyền đạt được những thông tin cần thiết tới khách hàng.
1.1.3.2. Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua
bán các chứng khoán cho chính mình
9
Hoạt động tư doanh của CTCK có thể được thực hiện trên các thị
trường giao dịch tập trung hoặc trên thị trường OTC. Trên thị trường giao
dịch tập trung, lệnh giao dịch của các CTCK được đưa vào hệ thống và thực
hiện tương tự như lệnh giao dịch của khách hàng. Trên thị trường OTC, các
hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty vơi các đối tác
hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Trong hoạt động này, với tư
cách là một tổ chức pháp nhân chuyên nghiệp, CTCK còn đóng vai trò là nhà
tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng nhất định một số loại chứng khoán
và thực hiện mua bán với khách hàng nhằm hưởng phí giao dịch và chênh
lệch giá. Ngoài ra, CTCK còn được kinh doanh các nghiệp vụ khác ngoài mua
bán chứng khoán thông thường nhằm thu lợi nhuận cho chính mình khác như
cho vay chứng khoán, repo chứng khoán, mua bán các công cụ chứng khoán
phái sinh…
Như vậy, mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho
chính công ty. Hoạt động này thực hiện song hành với hoạt đông môi giới,
vừa phục vụ lênhj giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho
chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích
giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Vì vậy để
đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường, pháp luật các nước đều
yêu cầu các CTCK phải đáp ứng một số yêu cầu nhất đinh
a. Điều kiện để thực hiện hoạt động tự doanh
- Điều kiện về vốn: để thực hiện hoạt động tư doanh, các công ty chứng
khoán phải có đủ một số vốn nhất định theo quy định của pháp luật. Việc quy
định mức vốn trên nhằm mục đích đảm bảo rằng các CTCK thực sự có vốn và
dùng vốn của họ để kinh doanh.
10
- Điều kiện về con người: con người cũng là yếu tố quyết định đến sự
thành công của hoạt động tự doanh. Chính vì vậy, nhân viên thực hiện nghiệp vụ
tự doanh của Công ty phải có chuyên môn nhất định, có khả năng tự quyết cao và đặc
biệt là tính nhạy cảm trong công việc.
b. Những yêu cầu đối với công ty chứng khoán trong hoạt động tự doanh
- Tách biệt quản lý: công ty chứng khoán phải tách biệt giữa hoạt động
môi giới và hoạt động tự doanh nhằm tránh các xung đột lợi ích giữa công ty
và khách hàng. sự tách biệt này bao gồm cả về yếu tố con người, quy trình
nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng, của công ty.
- Ưu tiên khách hàng: nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được
xử lý trước lệnh tư doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng
cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do CTCK có tính đặc
thủ về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các CTCK
có thể sẽ dự đoán trước diễn biến của thị trường và sẽ mua bán tranh của
khách hàng nếu không có nguyên tắc trên.
- Bình ổn thị trường: do tính đặc thù của TTCK, đặc biệt là các TTCK
mới nổi, bao gồm chủ yếu là các nhf đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ thì tính chuyên
nghiệp tronghoạt đồng đầu tư không cao. Điều này rất dễ dẫn đến những biến
động bất thường trên thị trương. Bên cạnh hoạt động cảu các quỹ đầu tư
chứng khoán, các CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của
mình có thể thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều
tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trương. Thông
thường, chức năng bình ổn giá cả khôn phải là một quy định bắt buộc trong
hệh thống pháp luật của các nước, tuy nhiên đây thương là nguyên tắc nghề
nghiệp do các hiệp hội chứng khoán đặt ra trên thị trường và các CTCK phải
tuân thủ theo trong quá trình hoạt động
11
Bên cạnh đó, các CTCK còn phải tuân thủ một số quy định khác như các
giới hạn về đầu tư, lĩnh vực đầu tư v.v. nhằm đảm bảo một độ an toàn nhất
định cho các CTCK trong quá trình hoạt động, tránh những sự đổ vỡ gây thiệt
hại chung cho cả thị trường.
1.1.3.3. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh giúp cho tổ
chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức
việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn
đầu sau khi phát hành.
Hoạt động bảo lãnh phát hành bao gồm:
• Nghiên cứu và tư vấn cho tổ chức phát hành về các thủ tục và phương
pháp phát hành, loại chứng khoán phát hành, cơ cấu giá…
• Thỏa thuận với các nhà bảo lãnh khác trong việc tiếp thị phân phối
chào bán chứng khoán
• Quản lý phân phối và thanh toán chứng khoán.
• Thực hiện các công việc hỗ trợ cho thị trường và dịch vụ sau khi phát
hành.
• Đại lý phân phối chứng khoán.
Qua hoạt động bảo lãnh phát hành, các Công Ty Chứng Khoán thu về
hoa hồng bảo lãnh. Hoa hồng này có thể là cố định, có thể là tùy ý tùy từng
Công Ty Chứng Khoán.
12
Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
(Nguồn Trung tâm đào tạo UBCKNN)
Tổ
chức
phát
hành
Uỷ
ban
chứng
khoán
Nhà
nước
Nhận yêu cầu bảo lãnh
Ký hợp đồng tư vấn quản lý
Đệ trình p/án bán, cam kết BL
Lập nghiệp đoàn bảo lãnh
Ký hợp đồng bảo lãnh
Nộp HS xin phép p/hành
Thăm dò thị trường
Giấy phép phát hành Chứng
khoán KKKánkhoán có hiệu
lực
Công bố việc phát hành
Phân phát bản cáo bạch
Phân phát phiếu đăng kí mua chứng khoán
Nhận tiền đặt cọc
Phân phối cổ phiếu trên cơ sở
phiếu đăng kí
Lưu ký chứng khoán
Bình ổn thị trường Thanh toán
Công Ty Chứng
Khoán
13
1.1.3.4. Hoạt động tư vấn đầu tư
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân
tích để đưa ra các lời khuyên, phânt ích các tình huống và có thể thực hiện
một số công biệc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài
chính cho khách hàng. Đây là hoạt động khó và phức tạp đòi hỏi CTCK phải
có kỹ năng và am hiểu thị trường cũng như trách nhiệm, tính trung thực cao
đối với những dịch vụ mà mình cung cấp cho khách hàng
Để hiểu rõ về hoạt động tư vấn chứng khoán, chung ta có thể phân loại
hoạt động này theo một số tiêu chí sau:
* Theo hình thức của hoạt động tư vấn: có thể gồm
- Tư vấn trực tiếp: khách hàng có thể gặp trực tiếp nhà tư vấn hoặc sử
dụng các phương tiện liên lạc như điện thoại, fax… để hỏi ý kiến
- Tư vấn gián tiếp: là cách người tư vấn xuất bản các ấn phẩm hay đưa
thông tin lên các phương tiện truyền thông như Internet để khách hàng nào
cũng có thể tiếp cận được nếu muốn
* Theo mức độ uỷ quyền của hoạt động tư vấn
- Tư vấn gợi ý: Ở mức độ này, ngườì tư vấn chỉ có quyền nêu ý kiến
của mình về những diễn biến trên thị trường gợi ý cho khách hàng về những
phương pháp, cách thức xử lý nhưng quyền quyết định là của khách hàng
- Tư vấn uỷ quyền: bên cạnh việc tư vấn cho khách hàng, nhà tư vấn có
thể quyết định hộ khách hàng theo mức độ uỷ quyền của khách hàng
* Theo đối tượng của hoạt động tư vấn
- Tư vấn cho người phát hành: hoạt động tư vấn cho người phát hành
tương dối đa dạng, từ việc phân tích tình hình tài chính đến định giá doanh
nghiệp, tư vấn về cơ cấu vốn, cổ phần hoá, hay thâu tóm sáp nhập với công ty
khác, tư vấn về phương án phát hành chứng khoán v.v…
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét