như mua trái phiếu chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng gửi mà
ngân hàng huy động được.
Bảo lãnh : Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua
chịu hàng hoá và trang thiết bị , phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức
tín dụng khác…
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn : Ngân hàng mua các thiết bị và máy
móc cần thiết và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàn phải trả tới hơn
70% hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê.
Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn : Uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ,
uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư… trong đó ngân hàng thực hiện việc quản lý
tài sản và quản lý tài chính hộ cho các cá nhân và doanh nghiệp.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm : Ngân hàng bán bảo hiểm cho khách
hàng, cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm.
Cung cấp các dịch vụ đại lý : Đại lý cho các ngân hàng khác như thanh
toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi làm ngân hàng đầu mối trong
đồng tài trợ…
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
PHẦN 2
THANH KHOẢN VÀ RỦI RO THANH KHOẢN
I. KHÁI NIỆM
Để đi sâu tìm hiểu về hoạt động quản lý thanh khoản tại ngân hàng
chúng ta cần biết một số khái niệm cơ bản sau :
1.1. Tính thanh khoản của tài sản
Là khả năng chuyển tài sản thành tiền, được đo bằng thời gian và chi phí.
Chi phí ở đây không phải là chi phí để bán tài sản thành tiền mà là tổn thất
(giảm giá) của tài sản. Thời gian và chi phí càng cao thì tính thanh khoản của
tài sản càng thấp và ngược lại. Tính thanh khoản của tài sản phản ánh rủi ro
(tổn thất) khi chuyển tài sản thành tiền trong khoảng thời gian nhất định. Tuy
nhiên một số trường hợp, một tài sản muốn bán nhanh (thời gian chuyên tiền
ngắn) thi chi phí (tổn thất) lại lớn. Điều này cho thấy tính thanh khoản của
một tài sản phụ thuộc vào nhiều nhân tố và có thể thay đổi giữa các vùng, các
nước. Vì vậy những tài sản nào đáp ứng cả hai yêu cầu : thời gian ngắn và chi
phí thấp mới được xếp vào tài sản thanh khoản.
Ngân hàng nắm giữ danh mục tài sản có tính thanh khoản khác nhau. Kết
cấu tài sản với tính thanh khoản khác nhau tạo nên tính thanh khoản của
nhóm tài sản hoặc tổng tài sản.
1.2. Tính thanh khoản của nguồn
Ngân hàng huy động vốn để tạo lập nên các tài sản, trong đó có các tài
sản có tính thanh khoản cao. Như vậy khả năng huy động tạo khả năng thanh
toán chongân hàng, phản ánh được tính thanh khoản của nguồn vốn. Tính
thanh khoản của nguồn được đo bằng thời gian và chi phí để mở rộng nguồn
khi cần thiết. Thời gian và chi phí càng thấp, tính thanh khoản của nguồn càng
cao. Tính thanh khoản của nguồn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự phát
triển của thị trường tài chính, sự gia tăng thu nhập của dân cư và tính nhạy
cảm của thu nhập với lãi suất, vị tríânf mạng lưới ngân hàng…
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
1.3. Cung và cầu thanh khoản, mua và bán thanh khoản
Cung thanh khoản chính là khả năng cung ứng tiền của một ngân hàng
thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bao gồm việc
giữ tài sản thanh khoản và khả năng huy động mới.
Cầu thanh khoản là nhu cầu thanh toán của khách hàng mà ngân hàng có
nghĩa vụ đáp ứng. Cầu thanh khoản bao gồm yêu cầu chi trả và vay hợp pháp
của ngân hàng.
Việc ngân hàng bán các tài sản để đáp ứng nhu cầu thanh khoản gọi la
bán thanh khoản. Việc mở rộng nguồn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản gọi là
mua thanh khoản trên thị trường. Cả bán và mua thanh khoản đều gắn liền với
chi phí: đó là tổn thất mà ngân hàng phải chấp nhận khi bán tài sản với giá
thấp hơn dự tính và lãi suất cao hơn mà ngân hàng phải trả để có nguồn mới.
Chi phí này là cái giá mà ngân hang phải trả để có được thanh khoản. Do yêu
cầu cấp bách trong thanh toán nên chi phí huy động (mua thanh khoản) của
ngân hàng thường cao hơn huy động bình thường.
Hoạt động thanh khoản tại ngân hàng thương mại :
Tính thanh khoản của ngân hàng là khả năng của ngân hàng trong việc
đáp ứng các nhu cầu thanh toán của khách hàng (ví dụ như rút tiền và yêu cầu
vay của khách hàng) được tạo bởi tính thanh khoản của tài sản và tính thanh
khoản của nguồn. Khả năng thanh khoản tại các ngân hàng là mục tiêu di
động luôn được hình thành từ những thay đổi trên thị trường tài chính. Một
ngân hàng được coi là có tính thanh khoản cao khi nó có đủ ngân quỹ và các
tích sản lưu hoạt khác cùng với khả năng tăng vốn nhanh từ các nguồn khác
nhau với chi phí thấp, khiến nó có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ chi trả và
các ràng buộc tài chính, theo một phương pháp thích hợp.
1.4. Rủi ro thanh khoản
Là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi cung thanh khoản không
đáp ứng được cầu thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản chỉ là một vấn đề thông thường xảy ra hàng ngày đối
với hoạt động ngân hàng. Chỉ trong trường hợp đặc biệt hạn hữu nó mới đe
doạ đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Vì thanh khoản là vấn đề
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
thường nhật, cho nên một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với
nhà quản lý là đảm bảo khả năng thanh khoản một cách thường xuyên và đầy
đủ.
Tại sao ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản ?
+ Những nguyên nhân tiền đề : có 3 nguyên nhân chính khiến cho ngân
hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản thường xuyên là :
- Ngân hàng huy động và đi vay vốn với thời hạn ngắn, và cứ tuần hoàn
chúng để sử dụng cho vay với thời hạn dài hơn. Do đó, nhiều khi ngân hàng
phải đối mặt với sự không trùng khớp với thời hạn đến hạn giữa tài sản nợ và
tài sản có. Ngân hàng luôn phải sẵn sàng thanh khoản để đối mặt với các nhu
cầu hoàn trả tức thời.
- Sự nhạy cảm của tài sản tài chính với những thay đổi của lãi suất. Khi
lãi suất tăng, nhiều người gửi tiền sẽ rút tiền ra tìm kiếm nơi gửi khác có mức
lãi suất cao hơn. Những người có nhu cầu tín dụng sẽ hoãn lại, hoặc rút hết số
dư hạn mức tín dụng với mức lãi suất thấp hơn lãi suất thoả thuận. Như vậy
thay đổi lãi suất sẽ ảnh hưởng đến luồng tiền vào ra của ngân hàng và cuối
cùng là đến thanh khoản của ngân hàng.
- Ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản một cách hoàn hảo.
Những trục trặc về thanh khoản sẽ làm xói mòn niềm tin của dân chúng vào
ngân hàng. Ngân hàng phải liên hệ chặt chẽ với những khách hàng có số dư
tiền gửi lớn và những khách hàng đang còn hạn mức tín dụng lớn chưa sử
dụng hết để biết được kết hoạch của họ khi nào thì rút tiền và rút bao nhiêu để
có phương án thanh khoản thích hợp.
+ Ngưyên nhân từ hoạt động :
- Nguyên nhân từ bên tài sản nợ : rủi ro thanh khoản có thể phát sinh bất
cứ lúc nào khi những người gửi tiền thực hiện việc rút tiền ngay lập tức. Để
đáp ứng nhu cầu này ngân hàng phải đi vay trên thị trường tiền tệ hoặc bán
bớt tài sản với giá thấp.
- Nguyên nhân từ bên tài sản có : rủi ro thanh khoản phát sinh liên quan
đến các cam kết tín dụng. Một cam kết tín dụng cho phép người vay rút tiền
vay bất cứ lúc nào trong thời hạn của nó, ngân hàng phải đảm bảo có đủ tiền
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
ngay lập tức để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nếu không ngân hàng sẽ phải
đối mặt với rủi ro thanh khoản.
Như vậy trong hầu hết các trường hợp khi ngân hàng phải đối mặt với
rủi ro thanh khoản thì chi phí huy động vốn bổ sung tăng lên một cách đáng
kể do lượng vốn cung ứng trên thị trường giảm. Hậu quả là ngân hàng phải
bán một số tài sản có độ thanh khoản thấp để đáp ứng nhu cầu gửi tiền của
người gửi. Điều này khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro thanh khoản nghiêm
trọng và ngân hàng buộc phải bán thốc bán tháo tức thời ngay cả số tài khoản
khó chuyển nhượng với giá thấp. Do bán khẩn cấp một số tài sản nên khả
năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng bị đe doạ. Từ chỗ đối mặt với rủi ro
thanh khoản ngân hàng sẽ đối mặt với rủi ro rủi ro phá sản. Mà ngân hàng có
thể bị đóng cửa nếu như không taqng đủ và kịp thời nguồn thanh khoản cho
dù khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng là tốt. Từ đó có thể thấy
được tầm quan trọng của quản lý thanh khoản của các nhà quản trị ngân hàng.
II. CÁC CHỈ TIÊU THANH KHOẢN
- Tỷ lệ tín dụng/tiền gửi : nếu một ngân hàng có tỷ lệ này cao, hàm ý
ngân hàng đã dựa chủ yếu vào nguồn vốn ngắn hạn hơn là nguồn vốn dài hạn
để tài trợ tín dụng.
- Tỷ lệ tiền vay/tổng tài sản : nếu một ngân hàng có tỷ lệ này cao, hàm ý
ngân hàng đã dựa chủ yếu vào nguồn vốn ngắn hạn hơn là nguồn vốn dài hạn
để tài trợ tín dụng.
- Tỷ lệ cam kết tín dung/tổng tài sản : tỷ lệ này cao phản ánh nhu cầu
thanh khoản cũng phải cao để đáp ứng nhu cầu rút tiền ra bất cứ lúc nào của
người vay. Như vậy một ngân hàng có nhiều cam kết tín dụng sẽ phải đối mặt
với rủi ro thanh khoản cao hơn ngân hàng có ít cam kết tín dụng.
- Chỉ tiêu trạng thái tiền mặt :
Trạng thái tiền mặt = (tiền mặt + tiền gửi đến hạn tại các tổ chức tín
dụng khác)/tổng tài sản có
Nếu chỉ tiêu này càng cao, hàm ý ngân hàng càng có khả năng xử ký các
nhu cầu tiền mặt tức thời.
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
- Chỉ tiêu chứng khoán thanh khoản
Chứng khoán thanh khoản = chứng khoán chính phủ/tổng tài sản có
Các chứng khoán thanh khoản bao gồm trái phiếu và tín phiếu kho bạc là
những chứng khoán có độ thanh khoản cao nhất.
- Chỉ tiêu năng lực sử dụng vốn sinh lời
Năng lực sử dụng vốn = (dư nợ tín dụng + dư nợ cho thuê)/tổng tài sản
có
Vì tín dụng và cho thuê tài chính được xem là những tài sản thanh khoản
cao nhất, do đó chỉ tiêu này càng lớn ngân hàng càng bộc lộ là kém thanh
khoản.
- Chỉ tiêu tiền nóng
Chỉ tiêu tiền nóng = tiền nóng bên tài sản có/tiền nóng bên tài sản nợ
Tiền nóng là các loại tài sản nhạy cảm lãi suất thường gồm tiền mặt, tiền
gửi không kỳ hạn, chứng khoán chính phủ ngắn hạn và các tài sản có thể
chuyển thành tiền trong ngắn hạn.
- Chỉ tiêu tiền gửi thường xuyên
Tiền gửi thường xuyên = tiền gửi thường xuyên/tổng tài sản
Chỉ tiêu này càng lớn thì ngân hàng càng đảm bảo được thanh khoản
- Chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi
Chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi = tiền gửi không kỳ hạn/tiền gửi có kỳ hạn
Chỉ tiêu này càng thấp thì nhu cầu thanh khoản của ngân hàng càng thấp.
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
PHẦN 3
QUẢN LÝ THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. KHÁI NIỆM
Quản trị thanh khoản là một lĩnh vực quản lý quan trọng đối với mọi
định chế tài chính. Các ngân hàng thương mại đều tham gia vào quá trình
trung gian hoá kỳ hạn, đi vay ngắn hạn và cho vay dài hạn do vậy nhất thiết
ngân hàng phải đối mặt với tình trạng thiếu thanh khoản tiềm năng. Quản lý
thanh khoản là một lĩnh vực quản lý nhằm đáp ứng mục tiêu thanh khoản của
ngân hàng tránh rủi ro thanh khoản cao.
Việc quản lý thanh khoản không phải là việc dễ làm bởi vì mỗi loại tài
sản khác nhau đều có sự khác nhau về thanh khoản. Ngoài ra yêu cầu thanh
khoản cũng biến đổi đáng kể trong các NHTM khác nhau và chủ yếu tuỳ theo
tính ổn định và khả năng tiên liệu các nguồn quỹ. Khi xác định mức thanh
khoản, nhà quản lý sẽ phải cân nhắc cẩn trọng giữa khả năng thanh khoản và
khả năng sinh lời vì thanh khoản của ngân hàng liên quan trực tiếp đến an
toàn và tính sinh lời. Đó la hai mặt của một bài toán, lãi suất cao gắn với tài
sản tài chính có kỳ hạn dài và tính lưu hoạt kém, còn tỷ suất lợi tức thấp gắn
với tài sản tài chính có kỳ hạn ngắn và tính lưư hoạt cao hơn, mà lời giải là
nhà quản trị phải cân đối cho được nhu cầu thanh khoản với các mục đích
sinh lợi. NHTM có thể giảm tối thiểu khả năng thanh toán của nó như thu hồi
vốn thông qua việc bán lại các tài sản có tính thanh khoản cao và đầu tư vào
các tài sản dài hơn để tìm kiếm mới lợi nhuận cao hơn, nhưng làm như vậy sẽ
có mức rủi ro cao hơn, đồng thời có nguy cơ thiếu thanh khoản và thậm chí
chịu thêm rủi ro lãi suất bởi tài sản có kỳ hạn dài.
Ngược lại có thể giảm tối thiểu rủi ro thiếu thanh khoản bằng cách chỉ
nắm giữ đa số các tài sản có tính thanh khoản cao so với nhu cầu thanh khoản
dự kiến nhưng ảnh hưởng đến mức sinh lời. Để gia tăng an toàn thanh khoản,
chi phí cũng phải gia tăng. Có thể làm giảm thu nhập của ngân hàng. Do vậy
duy trì an toàn thanh khoản – tức khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh
khoản là mục tiêu quan trọng và xuyên suốt trong hoạt động của ngân hàng.
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
II. MỤC TIÊU QUẢN LÝ THANH KHOẢN
- Đảm bảo khả năng chi trả kịp thời của ngân hàng với chi phí hợp lý
- Dự đoán các nguy cơ rủi ro thanh khoản và tổn thất có thể xảy ra.
III. NỘI DUNG QUẢN LÝ THANH KHOẢN
Quản lý thanh khoản không chỉ được đặt ra đối với các ngân hàng
thương mại mà còn đối với các trung gian tài chính hoạt động dựa trên tiền
gửi. Tuy nhiên nội dung quản lý thường có điểm khác nhau giữa các ngân
hàng khác nhau(tại các vùng khác nhau, tuỳ thuộc mục tiêu và chiến lược phát
triển trong từng thời kỳ, các quy mô và điều kiện pháp lý khác nhau…). Có
ngân hàng qủan lý thanh khoản nghiêng về phía tài sản, có ngân hàng nghiêng
về phí nguồn(tức là duy trì khả năng vay nhanh chóng)… Đồng thời cũng có
nhiều trường phái quản lý thanh khoản khác nhau, như trường phái quản lý
khe hở thanh khoản (kết hợp cung cầu thanh khoản), trường phài quản lý theo
các tỷ lệ thanh khoản,,,
Dưới đây là sơ đồ thể hiện mối liên hệ giữa cung, cầu thanh khoản và tài
sản, nguồn vốn của ngân hàng:
Một cách tổng quát, thanh khoản ngân hàng có thể phân tích trong khuôn
khổ cung cầu, nghĩa là xác định những nhu cầu chi trả và những nguồn thu
của ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Trong đó, những nhu cầu chi trả
tại thời điẻm t gọi là “Cầu thanh khoản – kí hiệu D” và những nguốn t hu tại
thời điểm t gọi là “Cung thanh khoản – kí hiệu là S”.
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Tài sản Nguồn vốn
Cung thanh
khoản
Cầu thanh
khoản
3.1. Xác định cầu thanh khoản
Để có thể thực hiện các mục tiêu quản lý thanh khoản, nhà quản lý phải
xác định cầu thanh khoản, bao gồm các yếu tố tạo nên cầu thanh khoản, các
nhân tố tác động đến cầu thanh khoản và ước lượng cầu thanh khoản.
Cầu thanh khoản được tạo thành bởi các yếu tố chính sau :
- Nhu cầu rút tiền của người gửi : đây là nhu cầu thanh khoản chính có
tính thường xuyên, tức thời và vô điều kiện; bao gồm tất cả các loại thuộc tiền
gửi không kỳ hạn, tiền gửi phát hành séc, tiền gửi có kỳ hạn có thể rút trước
hạn, tiền gửi có kỳ hạn thanh toán khi đến hạn, thanh toán kỳ phiếu và trái
phiếu khi đến hạn…
- Nhu cầu tín dụng hợp pháp của khách hàng để thanh toán hàng hoá và
dịch vụ mà ngân hàng cam kết cho vay. Đây là các quan hệ tín dụng mà ngân
hàng muốn duy trì và đáp ứng, bao gồm nhu cầu cấp tín dụng mới, gia hạn khi
khoản vay đến hạn, sỉư dụng hạn mức tín dụng hay thực hiện cam kết tín
dụng.
- Các khoản tiền vay đến hạn phải trả : đây là quan hệ tín dụng trên thị
trường tiền tệ bao gồm hoàn trả tiền vay từ các ngân hàng khác, từ NHTW và
các thoả thuận mua lại.
- Chi phí hoạt động và trả thuế : bao gồm các chi phí liên quan đến hoạt
động , như chi tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, công tác phí, mua
sắm tài sản, chi sử dụng dịch vụ của các đơn vị khác; chi trả thuế các loại.
- Thanh toán cổ tức cho cổ đông : bao gồm chi trả cổ tức cho tất cả các
loại cổ phiếu do ngân hàng phát hành.
- Trong cầu thanh khoản, có hai bộ phận quan trọng đối với ngân hàng.
Đó là nhu cầu rút tiền và nhu cầu vay tiền của khách hàng. Loại thứ nhất gắn
liền với tiền ngân hàng huy động được, loại thứ hai gắn liền với việc tạo nên
tài sản mới. Các khoản tiền khi huy động được, ngay lập tức gia tăng ngân
quỹ cho ngân hàng (tức là tăng cung thanh khoản), đồng thời cũng tạo nên
nhu cầu về thanh khoản. Sự khác biệt về kỳ hạn của các dòng tiền vào (cung
thanh khoản) và dòng tiền ra (cầu thanh khoản) tạo nên sự khác biệt về cung
và cầu thanh khoản.
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Cách thức mà ngân hàng áp dụng để quản lý cầu thanh khoản có ý nghĩa
rất quan trọng đối với sự an toàn của hệ thống. Sau đây là một số nội dung
chính:
- Phân tích nhu cầu thanh khoản trong quá khứ để thấy những biến động
về những nhu cầu này và các nhân tố ảnh hưởng.
- Đo mối liên hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng và nhu cầu thanh khoản để
xác định tần suất và độ lớn trong thay đổi nhu cầu thanh khoản
- Phân tích và định lượng nhu cầu thanh khoản đối với từng loại tiền gửi,
từng nhóm khách hàng và từng thời kỳ trong một năm. Các ngân hàng thương
mại dự đoán nhu cầu thanh khoản dựa trên phân tích các dòng tiền rút ra kỳ
trước và có tính đến những thay đổi có thể xảy ra kỳ này. Kỳ tính có thể là
hàng ngày, tuần, tháng, năm hoặc nhiều năm…
Ngân hàng có thể phân loại những nguồn, những thời điểm có tần suất
chi trả lớn, các định tỷ lệ trung bình chi trả đối với các nguồn tiền. Các nguồn
tiền có tính ổn định thấp (thường có vòng quay lớn) thường có tỷ lệ chi trả
cao. Các nguồn tiền ổn định hơn (vòng quay thấp) thì tỷ lệ chi trả thấp. Điểm
quan trọng là sau khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh
khoản, nhà quản lý ngân hàng sẽ xác định được chiến lược quản lý thanh
khoản bằng cách thiết lập các chính sách nhằm duy trì những điều kiện để ổn
định nhu cầu thanhh khoản và biện pháp đáp ứng nhu cầu này khi cần thiết,
trên cơ sở đó vừa bảo đảm an toàn thanh khoản vừa tối đa hoá thu nhập.
3.2. Xác định cung thanh khoản
a.Quản lý thanh khoản từ phía tài sản – chiến lược dự trữ
Ngân hàng phải duy trì khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản của
khách hàng – nhu cầu thanh khoản. Cung thanh khoản có thể được tạo từ 2
phía : phía tài sản và phía nguồn vốn ( hoặc từ hai cách : duy trì dự trữ và khả
năng huy động). Theo trường phái quản lý bên trong, có thể đáp ứng nhu cầu
thanh khoản từ phía tài sản thông qua chiến lược dự trữ. Quan điểm này cho
rằng duy trì thanh khoản của các tài sản thông qua quản lý tài sản, có thể cung
cấp thanh khoản. Trên khía cạnh rủi ro điều đó có nghĩa là ngân hàng cần tạo
nên tài sản phù hợp về thời gian, khối lượng và cấu trúc của nguồn.
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét