Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
doanh nghiệp trên thị trường. Tham gia vào hệ thống hàng hóa thường có nhà sản
xuất (nhà nhập khẩu), trung gian bán buôn, trung gian bán lẻ, người tiêu dùng cuối
cùng và họ được gọi là các thành viên của hệ thống” [Quản trị kênh phân phối – nhà
xuất bản thống kê 2004].
Có thể nói trong nền kinh tế thị trường, các quan niệm trên thường nhấn mạnh
và đề cao vai trò của hệ thống phân phối hàng hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội nói chung và đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng. Với
cách đặt vấn đề như vậy, tôi quan niệm:
Hệ thống phân phối là một tập hợp các tổ chức, cá nhân, cơ sở vật chất kỹ
thuật tham gia vào quá trình đưa hàng hóa, dịch vụ từ người sản xuất (nhập khẩu)
đến người tiêu dùng; là quá trình tạo nguồn hàng, quản lý dự trữ, vận chuyển hàng
hóa, giao nhận và bán hàng hóa với chi phí thấp và tối đa hóa lợi nhuận.
2. Đặc điểm dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa
Về bản chất, dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa có những nét
rất khác biệt, khiến các nhà phân phối không thể bỏ qua. Những dặc điểm đó là:
- Là sản phẩm vô hình, chất lượng dịch vụ rất khó đánh giá, vì nó chịu nhiều
tác động như người bán, người mua và cả thời điểm mua bán dịch vụ ấy. Có những
sản phẩm là một quá trình thực hiện đồng thời rất nhiều khâu rất nhiều công việc. Ví
dụ như : logistics và dịch vụ logistics tron ghệ thống phân phối. Logistics là một quá
trình tối ưu hoá về vị trí và thời gian, vận chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ điểm
đầu tiên của dây chuyền cung ứng cho tới tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua
hàng lọat các hoạt động kinh tế.
- Là sản phẩm vô hình, dịch vụ có sự khác biệt về chi phí so với các sản phẩm
vật chất. Nó là sản phẩm không thể cầm nắm được, không thể định mức được NVL
như đối với sản phẩm vật chất cho nên chi phí của nó cũng rất khác so với sản phẩm
vật chất thông thường.
- Dịch vụ không thể cất trữ trong kho, làm phần đệm điều chỉnh sự thay đổi
nhu cầu thị trường như các sản phẩm vật chất khác Do đặc điểm sản xuất và tiêu
dùng của sản phẩm dịch vụ phải diễn ra đồng thời, tức sản xuất được sản phẩm dịch
vụ nào sẽ tiêu thụ hết ngay nên đã nảy sinh thêm đặc điểm dịch vụ không thể cất trữ.
- Dịch vụ logistics là một hệ thống các hoạt động nhằm tối ưu hoá mọi công
việc, mọi thao tác từ khâu cung ứng , sản xuất, phân phối và tiêu dùng sản phẩm chứ
không phải chỉ là "kho" và "vận", "giao" và "nhận" như một số người lầm tưởng. Đây
là một chuỗi các dịch vụ chứ không phải là một dịch vụ đơn thuần.
Lê Mạnh Cường CQ490286
6
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
- Dịch vụ logistics hỗ trợ hoạt động phân phối của các doanh nghiệp: dịch vụ
logistics hỗ trợ toàn bộ quá trình hoạt động phân phối của doanh nghiệp từ cung ứng
các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất cho tới phân phối các sản phẩm đầu ra,
ngay cả khi sản phẩm đã ra khỏi dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp và đến tay
người tiêu dùng. Doanh nghiệp cung ứng có thể kết hợp bất cứ yếu tố nào của các
dịch vụ logistics với nhau hay tất cả các yếu tố logistics tuỳ theo yêu cầu của khách
hàng.
- Dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa là sự phát triển cao,
hoàn chỉnh của dịch vụ vận tải giao nhận, vận tải giao nhận gắn liền và nằm trong
logistics.
Cùng với quá trình phát triển của mình, các dịch vụ logistics trong phân phối
đã làm đa dạng hóa khái niệm vận tải giao nhận truyền thống. Từ chỗ chỉ thay mặt
khách hàng để thực hiện các khâu rời rạc như nhận hàng, bao gói, bảo quản, vận
chuyển hàng hoá cho đến cung cấp dịch vụ trọn gói. Từ chỗ đóng vai trò đại lý,
người uỷ thác trở thành một chủ thể chính trong các hoạt động vận tải giao nhận với
khách hàng, chịu trách nhiệm trước các nguồn luật điều chỉnh. Ngày nay, người giao
nhận vận tải trở thành người cung ứng dịch vụ thực hiện một loạt các nghiệp vụ,
quản lý một hệ thống đồng bộ từ giao nhận tới vận tải, cung ứng nguyên vật liệu
phục vụ sản xuất kinh doanh, bảo quản hàng hoá trong kho, phân phối hàng hoá đúng
nơi, đúng lúc, sử dụng thông tin điện tử để theo dõi kiểm tra
Các dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa là một chuỗi công
việc có tính chất liên hoàn, số lượng công việc nhiều, tính chất công việc phức tạp,
thời gian thực hiện kéo dài.
II- Các loại hình dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa
(bán buôn, bán lẻ)
1. Sơ lược về logistics
Thuật ngữ logistics đã có từ khá lâu trong lịch sử.Lần đầu tiên logistics được
phát minh và ứng dụng không phải trong hoạt động thương mại mà là trong lĩnh vực
quân sự.Logistics được các quốc gia ứng dụng rất rộng rãi trong hai cuộc Đại chiến
thế giới để di chuyển lực lượng quân đội cùng các vũ khí có khối lượng lớn và đảm
bảo hậu cần cho lực lượng tham chiến.Sau khi chiến tranh thế giới kết thúc, các
chuyên gia logistics trong quân đội đã áp dụng các kỹ năng logistics của họ trong
hoạt động tái thiết kinh tế thời hậu chiến. Trải qua dòng chảy lịch sử, logistics ngày
càng được nghiên cứu và áp dụng sâu vào lĩnh vực kinh doanh.Có rất nhiều khái
Lê Mạnh Cường CQ490286
7
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
niệm khác nhau về logistics cũng như dịch vụ logistics được đưa ra bởi các tổ chức,
cá nhân nghiên cứu về lĩnh vực này.
Theo Hội đồng quản trị Logistics của Mỹ (CLM) thì "Quản trị logistics là quá
trình hoạch định, thực hiện và kiểm soát một cách hiệu quả chi phí lưu thông, dự trữ
nguyên vật liệu, hàng tồn kho trong quá trình sản xuất sản phẩm cùng dòng thông tin
tương ứng từ điểm xuất phát đầu tiên đến điểm tiêu dùng cuối cùng nhằm mục đích
đáp ứng yêu cầu của khách hàng".
Dưới góc độ quản trị chuỗi cung ứng, thì logistics là quá trình tối ưu hoá về vị
trí, lưu trữ và chu chuyển các tài nguyên/yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát đầu tiên là
nhà cung cấp, qua nhà sản xuất, người bán buôn, bán lẻ, đến tay người tiêu dùng cuối
cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế (xem logistics and supply chain
management, tác giả Ma Shuo, tài liệu giảng dạy của World Maritime University,
1999).
Theo ông Nguyễn Hùng, Phó Tổng Giám Đốc Công ty Kho vận miền Nam
(Sotrans): Logistics là quá trình lập kế hoạch, thực hiện, kiểm soát một cách hiệu quả
những luồng lưu thông và khối lượng tồn kho của hàng hóa, dịch vụ và những thông
tin liên quan đến chúng.
Theo quan điểm "5 đúng" thì :"Logistics là quá trình cung cấp đúng sản phẩm
đến đúng vị trí, vào đúng thời điểm với điều kiện và chi phí phù hợp cho khách hàng tiêu
dùng sản phẩm".Còn theo giáo sư David Simchi-Levi (MIT, USD) thì hệ thống Logistics
là một nhóm các cách tiếp cận được sử dụng để liên kết các nhà cung cấp, nhà sản xuất,
kho, cửa hàng một cách hiệu quả để hàng hóa được sản xuất đúng số lượng, đúng địa
điểm và đúng thời điểm nhằm mục đích giảm thiểu chi phí trên toàn bộ hệ thống đồng
thời đáp ứng được các yêu cầu về mức độ phục vụ".
Theo luật Thương mại Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 và
Nghị định 140/2007NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết luật Thương mại về điều
kiện kinh doanh dịch vụ logistics có đưa ra khái niệm: Dịch vụ logistics là hoạt động
thương mại. Theo đó, thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao
gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy
tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch
vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao
Lê Mạnh Cường CQ490286
8
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
Nguyên vật liệu
Phụ tùng
Máy móc, thiết
bị
Bán thành phẩm
Dịch vụ
Đầu vào khác
Cung ứng Quản lý vật tư
Phân phối
Dòng chu chuyển vận tải
Dòng thông tin lưu thông
Hình 1: Các hoạt động cơ bản của chuỗi dịch vụ logistics
Qua sơ đồ trên có thể thấy dịch vụ logistics là một chuỗi các dịch vụ xuyến
suốt từ quá trình sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
Qua các quan niệm ở trên có thể chia khái niệm dịch vụ logistics thành hai
nhóm như sau:
Thứ nhất, nhóm định nghĩa hẹp mà tiêu biểu là định nghĩa của Luật Thương
mại 2005, coi logistics gần tương tự với giao nhận hàng hoá. Tuy nhiên trong đó có
tính mở, thể hiện trong đoạn "hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá".
Theo nhóm này, bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho
quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Theo đó, dịch vụ
logistics mang nhiều yếu tố vận tải, người cung cấp dịch vụ logistics không có nhiều
khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức(MTO).
Thứ hai, nhóm định nghĩa dịch vụ logistics theo phạm vi rộng, có tác động từ
giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hoá tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Theo
nhóm định nghĩa này, dịch vụ logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên, nhiên vật
liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hoá và đưa vào các kênh
lưu thông, phân phối để tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Nhóm định nghĩa này về
Lê Mạnh Cường CQ490286
Quá
trình
sản
xuất
(sản
xuất và
lắp ráp)
Đóng
gói
Kho
lưu
trữ
thành
phẩm
Bến
bãi
chứa
T.T
phân
phối
Khách hàng
9
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
dịch vụ logistics góp phần phân định rõ ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn
lẻ như dịch vụ vận tải, giao nhận, khai thuê hải quan, phân phối, dịch vụ hỗ trợ sản
xuất, tư vấn quản lý với một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp, người sẽ
đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hoá tới tay người
tiêu dùng cuối cùng.Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp đòi hỏi
phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để cung cấp dịch vụ "trọn gói" cho các
nhà sản xuất. Đây là một công việc mang tính chuyên môn hoá cao. Ví dụ, khi một
nhà cung cấp dịch vụ logistics cho một nhà sản xuất thép, anh ta sẽ chịu trách nhiệm
cân đối sản lượng của nhà máy và lượng hàng tồn kho để nhập phôi thép, tư vấn cho
doanh nghiệp về chu trình sản xuất, kỹ năng quản lý và lập kênh phân phối, các
chương trình marketing, xúc tiến bán hàng để đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng.
2. Các loại hình dịch vụ logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa
Dịch vụ logistics bao gồm rất nhiều hoạt động, dựa trên các tiêu thức khác
nhau có thể phân hệ thống dịch vụ logistics như sau:
- Theo toàn bộ quá trình cung ứng dịch vụ logistics, các dịch vụ logistics bao
gồm:
+ Dịch vụ logistics đầu vào
+ Dịch vụ logistics đầu ra
+ Dịch vụ logistics ngược
- Mỗi loại hàng hoá có các dịch vụ logistics tương ứng:
+ Dịch vụ logistics cho hàng tiêu dùng có thời hạn sử dụng
ngắn:quần áo, giầy dép, thực phẩm
+ Logistics cho ngành ôtô
+ Logistics cho ngành hoá chất
+ Logistics cho ngành điện tử.
+ Logistics cho ngành dầu khí
- Theo nghị định số 140/2007/NĐ-CP của Chính phủ, dịch vụ logistics được
phân thành 3 nhóm:
+ Các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm:
Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;
Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hoá, bao gồm cả hoạt động kinh doanh
kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan
và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hoá.
Lê Mạnh Cường CQ490286
10
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý
thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hoá trong suốt cả chuỗi logistics;
hoạt động xử lý lại hàng hoá bị khách hàng trả lại, hàng hoá tồn kho, hàng hoá quá
hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hoá đó; hoạt động cho thuê và thuê mua container.
+ Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
Dịch vụ vận tải hàng hoá
Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa;
Dịch vụ vận tải hàng không;
Dịch vụ vận tải đường sắt;
Dịch vụ vận tải đường bộ;
Dịch vụ vận tải đường ống;
+ Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:
Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật;
Dịch vụ bưu chính;
Dịch vụ thương mại buôn bán;
Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho,
thu gom, tập hợp, phân loại hàng hoá, phân phối lại và giao hàng.
Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
- Theo phạm vi hoạt động
Dịch vụ logistics nội địa;
Dịch vụ logistics quốc tế.
II- Các yếu tố tác động đến sự phát triển của dịch vụ logistics trong
phân phối hàng hóa
1. Yếu tố đặc thù
Vận tải giao nhận nội địa ở Việt Nam thời gian qua chủ yếu là đường sắt và
đường ôtô vì đường sắt và đường ôtô có cơ sở hạ tầng, hệ thống bến bãi tương đối
hoàn chỉnh. Hàng hoá vận chuyển nội địa chủ yếu là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ,
nông sản, hàng rời, nguyên vật liệu cho sản xuất và xây dựng nên xe thùng được sử
dụng phổ biến hơn cả. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải đều có đội xe để
tham gia vận tải nội địa, đồng thời để vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu từ các
cảng, các sân bay về kho của khách hàng và ngược lại từ kho của khách hàng ra
cảng, sân bay để bắt đầu hành trình. Những năm qua, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải
được cải thiện cho nên vận tải giao nhận hàng hoá bằng container nội địa cũng được
phát triển.Ngoài các đội xe chuyên dụng truyền thống thông thường, các doanh
Lê Mạnh Cường CQ490286
11
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
nghiệp đã trang bị xe chuyên dụng chở container từ Hải Phòng đi các tỉnh phía Bắc,
Đà Nẵng đi các tỉnh miền Trung và Sài Gòn đi các tỉnh đồng bằng Nam bộ. Ngoài
ôtô, ngành đường sắt cũng tổ chức chuyên chở hàng hoá học tuyến Bắc Nam tạo sự
liên kết chặt chẽ các địa phương, các vùng, các miền trong lưu thông hàng hoá và tích
cực tham gia chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu. Từ chỗ chưa có toa xe chuyên
dụng chở container đến nay xe chuyên dụng của đường sắt đã đáp ứng yêu cầu vận
chuyển container của khách hàng trên toàn tuyến.
Về phân phối hàng hoá, các doanh nghiệp lớn có thế mạnh trong việc cung
ứng dịch vụ vận chuyển hàng hoá có khối lượng lớn, hàng theo kế hoạch, hàng siêu
trường, siêu trọng thì các doanh nghiệp nhỏ lại có lợi thế trong cung ứng dịch vụ vận
chuyển hàng thông thường như hàng bách hoá, hàng rời, hàng container có khối
lượng nhỏ và đặc biệt là thầu việc phân phối các sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi
tiêu thụ trong nội địa cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hoặc vận chuyển
máy móc, thiết bị, hàng công trình ra vào các cảng Việt Nam theo yêu cầu của khách
hàng.
2. Nhóm những nhân tố chung
2.1.Yếu tố chính trị, pháp luật
Trong kinh doanh hiện đai, các yếu tố chính trị, pháp luật ngày càng có ảnh
hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước hiện nay là nền kinh tế phổ biến trên thế giới. Khi tham gia
vào kinh doanh, để thành công trên thương trường thì các doanh nghiệp phải không
những nắm vững pháp luật trong nước mà còn phải hiểu và nắm vững pháp luật quốc
tế tại thị trường mà mình kinh doanh. Đồng thời với việc nắm vững luật pháp thì các
doanh nghiệp cũng phải chú ý tới môi trường chính trị. Chính trị có ổn định thì sẽ
giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Các yếu
tố cơ bản thuộc môi trường chính trị, pháp luật là:
- Sự ổn định về chính trị và đường lối ngoại giao.
- Sự cân bằng của các chính sách của Nhà nước.
- Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội.
- Hệ thống pháp luật và mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật
Trước năm 2005, luật pháp Việt Nam chưa hề có quy định về việc kinh doanh
dịch vụ logistics cũng như các hình thức dịch vụ logistics. Đến tận khi luật Thương
mại được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 và nghị định 140/2007/NĐ-CP của
Lê Mạnh Cường CQ490286
12
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
Chính phủ mới có quy định chi tiết về các dịch vụ logistics và điều kiện kinh doanh
dịch vụ logistics.
Trước kia, các dịch vụ logistics mà chủ yếu là dịch vụ vận tải, giao nhận thì Nhà
nước nắm quyền chi phối.Gần đây, việc kinh doanh dịch vụ logistics được Nhà nước cho
phép mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia kinh doanh. Điều này tạo nên sự cạnh
tranh gay gắt trong ngành cung ứng dịch vụ logistics đồng thời cũng tạo nên sự đa dạng,
phong phú của các dịch vụ logistics, chất lượng dịch vụ cũng tốt hơn.
2.2.Yếu tố công nghệ
Trong thời đại khoa học-công nghệ phát triển như vũ bão, việc áp dụng các
tiến bộ này vào sản xuất kinh doanh làm cho hiệu quả ngày càng cao hơn. Các doanh
nghiệp cung ứng dịch vụ logistics nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ khoa học công
nghệ không những cho chính doanh nghiệp mình mà còn nhằm thực hiện dịch vụ tư
vấn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Sự phát triển của thương mại điện tử
đã đưa các doanh nghiệp tiên tiến đến việc ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt
động kinh doanh của mình. Điều đó đã làm cho chất lượng dịch vụ logistics của các
doanh nghiệp cung ứng tăng lên rõ rệt và sẽ mang lại sức cạnh tranh cao cho các
doanh nghiệp có ứng dụng dịch vụ mới vào kinh doanh.
2.3.Yếu tố cơ sở hạ tầng và điều kiện tự nhiên
Đối với sự phát triển của các dịch vụ logistics thì yếu tố cơ sở hạ tầng và điều
kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn. Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống giao thông vận
tải ( đường, phương tiện, bến bãi ), hệ thống thông tin, hệ thống bến cảng nhà kho,
điện nước hệ thống cơ sở hạ tầng tốt là điều kiện thuận lợi cho phát triển dịch vụ
logistics, đặc biệt là dịch vụ vận tải. Điều kiện tự nhiên là yếu tố cần được các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics đặc biệt quan tâm. Bởi các yếu tố như nắng, mưa,
hạn hán, lụt, dịch bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung ứng dịch vụ, đặc biệt là
dịch vụ vận tải đường biển vì nếu điều kiện không thuận thì sẽ không thực hiện được
dịch vụ này, thậm chí còn gây thiệt hại lớn bởi rủi ro trong vận tải biển là rất cao. Bên
cạnh đó cũng phải kể đến ảnh hưởng của sự khan hiếm của các nguyên,nhiên vật liệu,
sự gia tăng của chi phí năng lượng
2.4.Sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ Logistics
Cạnh tranh trong ngành dịch vụ logistics càng gay gắt thì loại hình dịch vụ
logistics càng phong phú, chất lượng dịch vụ logistics càng được nâng cao. Khi đề
Lê Mạnh Cường CQ490286
13
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
cập đến vấn đề cạnh tranh, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics phải xem xét
xem đối thủ của mình là ai, số lượng bao nhiêu, mức độ cạnh tranh thế nào. Trong
thời gian qua cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế trong nước là định
hướng mở cửa kinh doanh dịch vụ logistics. Số lượng các doanh nghiệp logistics
được mở ngày càng nhiều và dẫn đến cạnh tranh trong ngành ngày một gay gắt hơn
không chỉ các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics trong nước mà còn có sự
góp mặt của nhiều doanh nghiệp logistics nước ngoài.
2.5. Yếu tố khách hàng
Khách hàng chiếm vị trí trung tâm trong mọi hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics, để hoạt động có
hiệu quả thì các doanh nghiệp phải bán được hàng tức là phải có khách hàng thuê
dịch vụ logistics. Khách hàng của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics chủ
yếu là các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này có nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics
lớn thì ngành dịch vụ logistics mới phát triển được. Hiện nay không ít doanh nghiệp
tự mình thực hiện các hoạt động logistics mà không thuê dịch vụ ngoài. Vì vậy,
ngành dịch vụ logistics muốn phát triển thì phải cho các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh thấy được lợi ích to lớn của việc sử dụng dịch vụ logistics.
2.6. Hệ thống thông tin
Doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống thu thập thông tin về các yếu tố thuộc
môi trường vĩ mô, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, nguồn hàng Đối với doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics thì yếu tố thông tin là quan trọng.Thu thập được
thông tin thiết thực, kịp thời giúp doanh nghiệp nắm bắt được nhiều cơ hội tốt trong
kinh doanh. Cũng từ đó có các quyết định, các chính sách và chiến lược kinh doanh
thích hợp.
3. Kết luận
Như vây, qua nghiên cứu tổng thể các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của
các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics, chúng ta cũng thấy được ảnh hưởng
của các nhân tố này đến sự phát triển của các dịch vụ logistics. Các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ logistics càng phát triển thì các dịch vụ logistics cũng ngày càng
phát triển.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG DỊCH VỤ LOGISTIC TRONG HỆ THỐNG PHÂN PHỐI
HÀNG HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I- Hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta qua các thời kì phát triển
Lê Mạnh Cường CQ490286
14
Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics trong hệ thống phân phối hàng hóa ở nước ta
Trong lịch sử phát triển thương mại ở các nước XHCN nói chung, trong đó có
Việt Nam cho đến nay, việc vận dụng khái niệm phân phối và hệ thống phân phối
hàng hóa trong nghành thương mại, dựa vào 2 tiêu thức trước và sau chuyển đổi mô
hình và cơ chế kinh tế có thể khái quát chia làm 2 thời kỳ khác nhau:
-Thời kỳ hệ thống phân phối hàng hóa gắn với cơ chế kế hoạch hóa tập trung
(ở nước ta tính từ trước năm 1986)
-Thời kỳ hệ thống phân phối hàng hóa gắn với cơ chế thị trường (ở nước ta
tính từ năm 1986 đến nay)
1.Hệ thống phân phối hàng hóa trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung (từ
năm 1945 tới năm 1986)
Trong thời kỳ này sự hình thành và phát triển hệ thống phân phối hàng hóa nước
ta, chịu ảnh hưởng bởi nhiều nguyên nhân: Do quá độ đi lên xã hội mới từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế mang nặng tính tự cung tự
cấp, sản xuất hàng hóa mới phôi thai; lại chịu ảnh hưởng lâu dài bởi 2 cuộc chiến tranh
chống Đế quốc Pháp và Đế quốc Mỹ; và do nhận thức còn đơn giản về CNXH và con
đường đi lên CNXH nên đã vận dụng một cách máy móc mô hình và cơ chế vận hành
nền kinh tế theo kiểu của Liên Xô (trước đây), đó là mô hình kinh tế kế hoạch hóa chỉ
huy tập trung, quan liêu vận hành theo cơ chế bao cấp.
Hệ thống phân phối hàng hóa của thương mại trong thời kỳ này gắn với những
đặc trưng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: nhà nước quản lý hệ thống phân phối hàng hóa (mà thực chất là
phân phối hiện vật) bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu gắn với hệ thống chỉ tiêu
pháp lệnh chi tiết dội từ trên xuống dưới. Do đó hoạt động phân phối hàng hóa của
các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc là các quyết định của
cơ quan quản lý nhà nước cấp trên từ phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, đến địa
chỉ phân phối, địa chỉ tiêu thụ sản phẩm, đến việc xác định giá cả, và cả đến việc sắp
xếp tổ chức bộ máy.
Thứ hai: các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hệ thống phân
phối, nhưng lại không chịu trách nhiệm về vật chất đối với các quyết định không
đúng của mình. Với cách làm đó, nhà nước đã vi phạm yêu cầu của các quy luật kinh
tế khách quan vi phạm quyền tự chủ của các doanh nghiệp đang thực thi chức năng
phân phối lưu thông, gây ra những thiệt hại buộc ngân sách nhà nước phải gánh chịu.
Thứ ba: Trong mô hình và cơ chế kế hoạch hóa chỉ huy tập trung quan liêu bao
cấp, các phạm trù kinh tế và các quy luật kinh tế của kinh tế tập trung hầu như bị lãng
Lê Mạnh Cường CQ490286
15
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét