Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Các quỹ này đều được hình thành từ thu nhập của ngân hàng nhằm hỗ
trợ các hoạt động khác nhau của ngân hàng. Như: Quỹ dự phòng tổn thất:
được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất đã
và sẽ xảy ra; Quỹ bảo toàn vốn : nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động
của lạm phát. Ngoài ra, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen
thưởng,…
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Ngân hàng thường có các khoản vay trung và dài hạn, các khoản này có
thể được chuyển đổi thành vốn cổ phần là nguồn vốn bổ sung vốn chủ sở hữu
của ngân hàng.
1.3.2. Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi.
Tiền gửi là nguồn vốn huy động từ bên ngoài đầu tiên và quan trọng
nhất đối với mỗi NHTM. Trong cơ cấu vốn của tất cả các ngân hàng, tiền gửi
luôn chiếm tỷ trọng lớn và có ảnh hưởng nhiều nhất tới các hoạt động của
ngân hàng. Vì thế để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có
được nguồn tiền gửi chất lượng ngày càng cao thì các ngân hàng đã đa dạng
hoá hình thức huy động tiền gửi.
Tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi thanh toán là tiền gửi không kì hạn với mục đích là thanh toán
khi cần. Thông thường, chủ các tài khoản tiền gửi không kì hạn thường yêu
cầu ngân hàng thanh toán hộ mình cho các đối tác qua tài khoản mà không
cần phải đến ngân hàng rút tiền nữa. Ngày nay tài khoản tiền gửi thanh toán
còn đảm nhiệm rất nhiều chức năng hữu ích đối với người dùng. Mạng lưới
ngân hàng càng mở rộng và phát triển thì càng tạo nhiều thuận lợi cho những
người sở hữu các tài khoản tiền gửi thanh toán. Các ngân hàng thường trả lãi
suất cho các khoản tiền gửi thanh toán, dù lãi suất rất thấp. Điều đó càng làm hấp
dẫn khách hàng vì sự tiện lợi muốn rút tiền lúc nào cũng được, mặt khác nếu họ
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
chưa có nhu cầu sử dụng khoản tiền trong tài khoản trong một khoảng thời gian
thì tiền của họ vẫn đảm bảo khả năng sinh lời.
Tiền gửi thanh toán cũng là khoản vốn có chi phí (lãi suất) thấp nhất
trong các loại tiền gửi. Các ngân hàng ngày càng tạo ra rất nhiều sản phẩm
cũng như tiện ích sử dụng, hấp dẫn khách hàng gửi tiền thanh toán.
Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội.
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp hay tổ chức luôn có một
lượng tiền tạm thời chưa cần sử dụng, họ gửi nó vào ngân hàng với các kì hạn
khác nhau để hưởng lãi nhằm tạo thêm thu nhập cho mình. Tuy nhiên, lượng
tiền gửi có kì hạn của các tổ chức chiếm một lượng rất nhỏ so với lượng tiền
gửi không kì hạn, và lượng tiền này phụ thuộc vào chu kỳ hoạt động kinh
doanh sản xuất của các doanh nghiệp.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa dùng
đến, họ tích luỹ lại để tiêu dùng trong tương lai. Một trong những cách để
người dân có thể giữ tiền của mình là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng. Ngân
hàng đảm bảo an toàn cho tài sản của họ đồng thời trả lãi để khuyến khích họ
gửi nhiều tiền với thời hạn dài. Huy động tiền gửi trong dân cư là nghiệp vụ
truyền thống đem lại cho ngân hàng một lượng vốn rất lớn để có thể tiến hành
các hoạt động cho vay và đầu tư tìm kiếm lợi nhuận. Có 2 loại: tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Với tiền gửi tiết kiệm không kì hạn, người gửi có thể rút bất cứ khi nào
họ muốn. Còn với tiền gửi tiết kiệm có kì hạn, người gửi chỉ có thể rút tiền
khi đến hạn nhưng lại được hưởng mức lãi suất cao hơn nhiều so với tiền gửi
tiết kiệm không kì hạn. Hiện nay, để cạnh tranh hầu như các ngân hàng đều
cho người gửi tiền tiết kiệm có kì hạn rút tiền trước hạn khi cần, tuy nhiên
mức lãi suất sẽ thấp hơn so với rút tiền khi đáo hạn, hơn nữa các ngân hàng
thường mua bảo hiểm bảo hiểm tiền gửi. Điều này làm tăng sức hấp dẫn của
tiền gửi tiết kiệm có kì hạn.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Tiền gửi của các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác.
Các ngân hàng đều gửi một lượng tiền ở các ngân hàng khác nhằm mục
đích tạo sự thuận tiện cho việc thanh toán hộ, chuyển khoản hay mua bán,
giao dịch khác…Lượng tiền gửi này thường không lớn.
1.3.3 Tiền vay và nghiệp vụ đi vay.
Bên cạnh việc huy động vốn từ nhận tiền gửi, các ngân hàng còn đi vay
khi cần, có nhiều nguồn khác nhau như: vay từ NHNN, vay từ các TCTD
khác hoặc vay trên thị trường vốn…
Tiền vay NHNN.
Ngân hàng trung ương là ngân hàng của tất cả các ngân hàng, sẽ hỗ trợ
các ngân hàng trong các trường hợp khó khăn nhất, là người cho vay sau
cùng. Thông thường NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái chiết khấu,
hoặc tái cấp vốn. Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu sẽ trở
thành tài sản của NHTM. Khi cần tiền NHTM mang chúng lên NHNN để tái
chiết khấu. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ
tăng lên. NHNN kiểm soát việc vay mượn này một cách chặt chẽ. Thông
thường NHNN chỉ chiết khấu cho các thương phiếu có chất lượng (có khả
năng trả nợ cao và thời hạn đáo hạn ngắn), và phải phù hợp với mục tiêu của
NHNN trong từng thời kì. NHNN sẽ cho NHTM vay dưới dạng tái cấp vốn
khi NHTM chưa có thương phiếu, tuy nhiên số vốn cho vay theo hạn mức tín
dụng nhất định.
Tiền vay các tổ chức tín dụng khác.
Trong trường hợp cấp bách các ngân hàng có thể vay mượn lẫn nhau và
vay của các tổ chức tài chính khác trên thị trường liên ngân hàng, đây là hoạt
động thường xuyên và là cũng một kênh huy động vốn tốt cho các ngân hàng.
Quá trình vay mượn này đơn giản hơn rất nhiều so với việc vay vốn tại
NHNN, Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
thông qua ngân hàng đại lí (hoặc NHNN ). Khoản vay có thể không cần bảo
đảm hoặc được bảo đảm bằng các chứng khoán của kho bạc. Thông thường,
các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về
các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng
khác (đang thiếu hụt dự trữ ) vay. Đối với ngân hàng cho vay đây là cơ hội để
kiếm lời, còn với ngân hàng đi vay họ có được một lượng vốn để giải quyết nhu
cầu thanh khoản đang cần gấp, nói chung 2 bên đều có lợi.
Vay trên thị trường vốn.
Để huy động được lượng vốn dồi dào đáp ứng nhu cầu cho vay thường
xuyên (đặc biệt là cho vay trung và dài hạn), bên cạnh việc thu hút tiền gửi,
các Ngân hàng thường chủ động đi vay trên thị trường vốn bằng cách phát
hành các giấy nợ (kì phiếu, trái phiếu, tín phiếu) trên thị trường. Đây là các
khoản vay thường không cần có đảm bảo, nên những ngân hàng lớn có uy tín
hoặc trả lãi suất cao hơn thì sẽ vay được nhiều vốn hơn. Các ngân hàng nhỏ
khó vay mượn trực tiếp bằng cách này, họ phải thông qua ngân hàng đại lí
hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng Đầu tư. Thị trường tài chính càng phát
triển thì khả năng chuyển đổi các công cụ nợ dài hạn của các ngân hàng càng
tăng.
Vay nợ khác.
Ngoài những nguồn vốn đi vay cơ bản trên, Ngân hàng còn có các
nguồn vốn vay khác như:
- Nguồn uỷ thác: NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác
cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ….Trong
đó Uỷ thác Đầu tư là dịch vụ khá hấp dẫn của ngân hàng, khách hàng có thể
uỷ thác tiền bạc, tài sản của họ cho ngân hàng để ngân hàng tiến hành đầu tư
vào những dự án khả thi để sinh lãi.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
- Nguồn trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán ( séc trong quá trình chi trả, tiền
ký quỹ L/C…). Vì phần lớn chúng nguồn này ở trong trạng thái chờ luân
chuyển, do đó các ngân hàng ít khi chỉ sử dụng chúng để cho vay lâu dài mà
chỉ sử dụng để bổ sung thêm nguồn ở thời điểm hiện tại.
- Nguồn khác: thuế chưa nộp, lương chưa trả…Đây là nguồn mà ngân
hàng có thể tạm thời sử dụng khi cần.
Dưới đây chỉ tập trung vào nghiên cứu nguồn vốn kinh doanh của ngân
hàng thông qua hoạt động huy động, về đặc điểm và phương pháp quản lý
chúng nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh mà ngân hàng để ra.
1.4. Đặc điểm của các nguồn và các nhân tố ảnh hưởng tới nguồn tiền:
1.4.1 Đặc điểm nguồn tiền gửi và các nhân tố ảnh hưởng:
Đặc điểm chung của nguồn tiền này là thời gian thanh toán phụ thuộc
vào yêu cầu của khách hàng gửi tiền (bất cứ lúc nào, kể cả trường hợp chưa
đến hạn). Sự thay đổi của các loại tiền gửi ảnh hưởng đến khả năng thanh
khoản của ngân hàng đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn.
Tiền gửi thường chiểm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số vốn của ngân
hàng, chiếm khoảng 50% tổng số vốn. Tiền gửi chính là mục tiêu tăng trưởng
hàng năm của ngân hàng.
Do đặc điểm phải thanh toán ngay khi khách hàng có yêu cầu nên tiền
gửi có tính dự trữ bắt buộc, dẫn tới chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi suất
trả cho tiền gửi và nhiều ngân hàng đã mua bảo hiểm cho tiền gửi.
Sự biến động thay đổi lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và nhiều
nhân tố khác sẽ ảnh hưởng đến tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn. Lãi suất
cao là nhân tố thu hút lượng tiền nhàn dỗi tạm thời từ dân cư, các tổ chức,
doanh nghiệp. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của lạm phát nên lãi suất thực tế
dương thì mới thực sự là nhân tố thu hút gửi tiền tiết kiệm. Thời vụ chi tiêu
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
ảnh hưởng tới quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Các nhân tố khác như
địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh, các loại hình huy động đa dạng,
chương trình khuyến mại, các dịch vụ đa dạng,… đều ảnh hưởng đến quy mô
và kết cấu của nguồn tiền.
Ngân hàng cần phải nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tiền gửi
thông qua nghiên cứu đặc điểm thị trường nguồn tiền của ngân hàng nhằm
đưa ra biện pháp quản lý nguồn vốn một cách thích hợp. Tuy nhiên việc xác
định chính xác sự thay đổi quy mô và kết cấu của tiền gửi thường rất khó.
1.4.2 Đặc điểm nguồn đi vay và các nhân tố ảnh hưởng:
Trong tổng nguồn, nguồn này thường chiếm tỷ lệ thấp hơn so với
nguồn tiền gửi. Các khoản đi vay thường có thời hạn và quy mô xác định
trước, do vậy tạo thành nguồn vốn ổn định. Ngân hàng hoàn toàn xác định
được thời điểm vay và khối lượng cần vay, ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết,
theo nhu cầu sử dụng. Nguồn đi vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc
giống như nguồn tiền gửi và không cần có bảo hiểm. Tuy nhiên, lãi suất trả
cho nguồn tiền vay thường lớn hơn lãi suất nguồn tiền gửi do rủi ro lớn hơn.
Các khoản vay từ NHNN hoặc từ các ngân hàng khác có lãi suất thấp song
thường có thời hạn ngắn, do đó chỉ đáp ứng nhu cầu ngắn hạn của ngân hàng.
Việc cho vay vốn của NHNN phụ thuộc vào chính sách tiền tệ mà nó theo
đuổi theo từng thời kỳ. Việc vay vốn từ các ngân hàng trên cùng một địa bàn
cùng không thuận lợi khi các ngân hàng cùng trở nên khan hiếm phương tiện
thanh toán. Vì vậy, muốn mở rộng quy mô vay mượn trên thị trường tiền tệ
các ngân hàng cần thiết lập mối quan hệ liên ngân hàng với các ngân hàng
nước ngoài, phải có khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
Việc phát hành các giấy tờ nhằm vay vốn thời hạn là trung và dài hạn
đóng vai trò quan trọng trong việc tạo và gia tăng nguồn vốn trung và dài hạn
có tính ổn định cao cho ngân hàng. Thông qua nguồn vốn này ngân hàng có
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
thể cho vay các dự án, tài trợ trang thiết bị và bất động sản của doanh nghiệp
và người tiêu dùng. Điều kiện để nguồn này được đảm bảo là thu nhập của
dân cư, sự ổn định vĩ mô, và các kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo
tính thanh khoản của các giấy tờ ghi nợ và thuận tiện cho người cho vay. Tuy
mức lãi suất của nguồn này thường cao hơn so với các nguồn khác song đổi
lại nguồn này đáp ứng được những yêu cầu: ổn định, qui mô đủ lớn trong
khoảng thời gian xác định.
1.4.3 Đặc điểm của các nguồn khác:
Hầu hết các nguồn khác của ngân hàng đều có lãi suất bằng không(lãi
suất danh nghĩa) do ngân hàng không phải trả lãi. Trên thực tế để có và duy trì
chúng cần bỏ ra một khoản chi phí đáng kể. Ví dụ, để có các nguồn uỷ thác
đầu tư ngân hàng cần phải tìm kiểm chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ,
nghiên cứu các dự án mà họ tài trợ… Nói chung các nguồn khác trong ngân
hàng thường không lớn, việc gia tăng nguồn này nằm trong chính sách tăng
nguồn thu cho ngân hàng và phụ thuộc rất lớn vào khả năng thực hiện và mở
rộng các loại hình dịch vụ của ngân hàng.
1.5. Nội dung của quản lý vốn tại ngân hàng thương mại:
1.5.1 Mục tiêu của quản lý nguồn vốn:
Quản lý nguồn vốn tức là quản lý tài sản nợ, nó cần thiết đối với bất cứ
ngân hàng nào, nhằm mục đích:
- Khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế
- Đảm bảo sự tăng trưởng bền vững, tạo tiền đề nâng cao thị phần của
ngân hàng, thoả mãn tốt nhất nhu cầu vốn cho khách hàng về cả số lượng,
thời hạn và lãi suất
- Đảm bảo khả năng thanh toán và năng cao hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng.
1.5.2 Nội dung quản lý nguồn vốn tại ngân hàng theo quy trình quản lý:
1.5.2.1 Nội dung quản lý nguồn vốn:
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Theo quy trình quản lý, quản lý nguồn vốn tại NHTM bao gồm những
nội dung chủ yếu sau:
- Trước hết, để quản lý nguồn vốn ngân hàng cần xây dựng kế hoạch
nguồn vốn bao gồm các nội dung: quy mô, cơ cấu, tốc độ gia tăng nguồn vốn
năm kế hoạch so với năm trước, đề xuất các phương án huy động, chính sách
lãi suất tiền gửi, chương trình marketing,…
Kế hoạch nguồn vốn phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng vốn thực tế và cần
đảm bảo khả năng thanh toán. Vì vậy, khi lập kế hoạch nguồn vốn phải căn cứ
vào cơ cấu và quy mô tài sản Có để quyết định cơ cấu và quy mô tài sản Nợ, phù
hợp với trình độ quản lý và đảm bảo hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Kế
hoạch nguồn vốn của toàn hệ thống được xây dựng trên cơ sở tổng hợp kế hoạch
nguồn vốn của các chi nhánh và hội sở chính. Sau khi đã được các nhà quản lý
xem xét ký duyệt sẽ được giao xuống từng chỉ nhánh theo chỉ tiêu.
- Thực hiện công tác điều hành vốn trong toàn hệ thống: giao kế hoạch
nguồn vốn đối với từng chi nhánh, xác định hạn mức điều chuyển vốn, lãi
suất điều chuyển vốn,…
- Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch nguồn vốn trong
từng thời kỳ của riêng từng chi nhánh và chung cho toàn hệ thống.
- Theo dõi việc thực hiện lãi suất, chênh lệch lãi suất bình quân cho vay
và huy động của từng chi nhánh cũng như toàn bộ hệ thống.
2.5.2.2 Quy trình quản lý vốn tại ngân hàng thương mại:
Nhìn chung, các NHTM Việt Nam đều quản lý vốn theo quy trình cơ
bản sau:
Tại các chi nhánh:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch nguồn vốn:
- Căn cứ xây dựng:
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
+ Chính sách phát triển kinh tế của địa phương kết hợp với mục tiêu
tăng trưởng nguồn vốn của hệ thống.
+ Mục tiêu tăng trưởng riêng của hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
+ Kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước, kết quả huy động vốn, thị
phần huy động vốn trên địa bàn, chu kỳ tăng trưởng vốn của những năm trước
đó và dự đoán xu hướng tăng trưởng vốn trong năm kế hoạch.
- Lập kế hoạch nguồn vốn:
Kế hoạch nguồn vốn của chi nhánh lập theo năm có kế hoạch chi tiết
từng quý và gửi về hội sở chính trước khi năm kế hoạch bắt đầu.
Kế hoạch nguồn vốn của chi nhánh được xây dựng trên cơ sở kế hoạch
nguồn vốn của các đơn vị trực thuộc như các chi nhánh khu vực và phòng
giao dịch, phòng nguồn vốn, phòng tín dụng, phòng thanh tra quốc tế, và các
phòng chức năng có liên quan.
Trong đó phòng kế hoạch nguồn vốn là đơn vị chuyên trách trong việc
xây dựng kế hoạch nguồn vốn của chi nhánh. Phòng nguồn vốn kế hoạch sẽ
tổng hợp kế hoạch huy động vốn, có kèm các giải pháp thực hiện của các đơn
vị trực thuộc, đồng thời phân tích tình hình môi trường kinh doanh, thuận lợi,
khó khăn của chi nhánh, để xây dựng kế hoạch nguồn vốn. Trong đó đặc biệt
chú trọng tới kế hoạch nguồn vốn huy động, cơ cấu kỳ hạn, cơ cấu loại tiền
dự kiến của tài sản Có. Mặt khác xây dựng chính sách lãi suất phù hợp với
chính sách tín dụng, chính sách khách hàng đồng thời dự kiến các biện pháp
và công cụ huy động vốn.
Bước 2: Thực hiện công tác huy động và điều hành vốn:
- Chỉnh sửa kế hoạch nguồn vốn cho phù hợp với chỉ tiêu Hội sở
chính(HSC) giao
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
- Giao chỉ tiêu huy động vốn ( theo tháng và theo quý) cho các phòng,
các chi nhánh khu vực căn cứ vào kế hoạch mà đơn vị đã lập và khả năng huy
động của đơn vị.
- Quy định mức lãi suất huy động căn cứ vào chính sách lãi suất của hệ
thống, phù hợp với mặt bằng lãi suất trên thị trường huy động vốn của các
ngân hàng, và yêu cầu của hoạt động kinh doanh.
- Triển khai thực hiện huy động theo kế hoạch. Các đơn vị lập nhu cầu
chi trả hàng tuần hàng tháng, hàng quý trên cơ sở đó phòng vốn xây dựng dự
báo lưu chuyển dòng tiền mặt làm căn cứ điều hành nguồn vốn toàn chi
nhánh. Chi nhánh điều chuyển vốn về HSC hoặc nhận vốn điều chuyển từ
HSC theo hạn mức điều chuyển và lãi suất điều chuyển được giao. Hàng ngày
phòng nguồn vốn làm báo cáo về sự tăng giảm nguồn và sử dụng nguồn để
ban giám đốc điều hành và có sự chỉ đạo kịp thời, riêng cân đối tháng gửi
phòng nguồn vốn HSC để tổng hợp cân đối chung toàn hệ thống.
- Trong quá trình triển khai, chi nhánh có thể đề nghị HSC điều chỉnh
các chỉ tiêu nguồn vốn tuỳ thuộc vào tình hình thực hiện cụ thể.
- Chi nhánh đánh giá công tác nguồn vốn, so sánh với cùng kỳ năm
trước một cách định kỳ (hàng tháng, quý, năm), từ đó biết được các mặt được,
mặt còn hạn chế, rút ra những kinh nghiệm, đề xuất các biện pháp, kiến nghị
các điều kiện để chuẩn bị xây dựng kế hoạch nguồn vốn và thực hiện tốt kế
hoạch nguồn vốn trong năm sau.
Lập kế hoạch nguồn vốn tai Hội sở chính:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch nguồn vốn:
- Căn cứ xây dựng:
• Chiến lược phát triển dài hạn của toàn ngành trong từng thời kỳ nhất
đinh.
Đỗ Thị Phương Thảo Lớp: QLKT 46B
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét