Chuyên đề Tốt nghiệp
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Bản chuyên đề được nghiên cứu một cách tổng hợp những vấn đề cơ bản
của hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại.
Từ những nghiên cứu cơ bản đó, đi sâu vào phân tích thực trạng hoạt
động tại ngân hàng Công thương Đống Đa từ đó đánh giá kết quả, những hạn
chế còn tồn tại trong hoạt động này, phân tích những nguyên nhân của hạn chế
đó và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị của tác giả nhằm tháo gỡ những hạn
chế trên và thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng.
1/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu là mảng hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân
hàng Thương mại cùng các hình thức giao dịch của nó cũng như các điều kiện
để thực hiện các hình thức này.
+ Phạm vi nghiên cứu là chi nhánh ngân hàng Công thương Đống Đa
2/ Kết cấu:
Tên đề tài nghiên cứu"Một số giải pháp góp phần thúc đẩy hoạt động kinh
doanh ngoại tệ tại chi nhánh ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa"
3/ Bố cục
Lời mở đầu
Chương I: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại
Chương II: Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại
ngân hàng Công thương Đống Đa
Chương III: Một số giải pháp góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh
ngoại tệ tại ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa.
Lời kết
Hà nôi, ngày tháng năm 2001
Sinh viên
Nguyễn Mạnh Thắng
SV: Nguyễn Mạnh Thắng
Chuyên đề Tốt nghiệp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. NGHIỆP VỤ KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.1 Tổng quan về thị trường ngoại hối
Thế nào là thị trường ngoại hối. Sự ra đời và phát triển của thị trường
ngoại hối gắn liền với sự phát triển của ngoại thương. Các giao dịch trong ngoại
thương liên quan đến nhiềuloại đồng tiền của nhiều quốc gia khác nhau. Chẳng
hạn chúng ta không thể thu mua nông sản bằng USD để xuất khẩu và cũng
không thể nhập phân bón từ nước ngoài bằng VND. Do đó cần có sự chuyển đổi
USD và VND khi xuất nhập khẩu. Đó chính là thị trường ngoại hối.
Như vậy, thị trường ngoại hối là thị trường thực hiện các giao dịch trao
đổi các ngoại tệ. Thị trường này bắt nguồn từ sự hình thành và phát triển của
ngoại thương, do đó sự phát triển của nó gắn liền với sự phát triển của ngoại
thương. Có rất nhiều các trung tâm giao dịch ngoại hối lớn trên thế giới như
London, Newyork, Tokyo., Frankfurk… điều hành và phát triển thịnh vượng
gắn liền với sự phát triển của các trung tâm thương mại sầm uất với đầy đủ các
giao dịch buôn bán trong và ngoại nước.
1.1.1 Đặc điểm của thị trường ngoại hối
Vì là thị trường mua bán các loại hàng hoá đặc biệt - đồng tiền của các
nước - nên thị trường ngoại hối có đặc điểm riêng sau:
- Thị trường ngoại hối là thị trường mang tính quốc tế, phạm vi hoạt động
không chỉ trong một quốc gia mà trên khắp toàn cầu để phục vụ cho nhu cầu
giao dịch ngoại tệ.
- Thị trường ngoại hối là thị trường hoạt động liên tục trong một ngày. đặc
điểm này xuất phát từ sự chênh lệch múi giờ giữa các khu vực địa lý khác nhau
SV: Nguyễn Mạnh Thắng
Chuyên đề Tốt nghiệp
khiến cho thị trường ngoại hối quốc tế nói chung luôn mở cửa, các giao dịch
được thực hiện nhờ vào các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại như: Điện
thoại, FAX, hệ thống giao dịch và thông tin tài chính, ngân hàng quốc tế khiến
cho các giao dịch luôn được thực hiện.
- Các hoạt động giao dịch trên thị trường ngoại hối chủ yếu là các loại
ngoại tệ mạnh, có khả năng chuyển đôỉ cao: USD, DEM,JPY,GBP,… Các thị
trường ngoại hối quốc tế giao dịch chủ yếu là USD và thường dùng nó làm dự
trữ ngoại tệ của nước mình. Do đó thông thường giá trị của các đồng tiền khác
được biểu hiện thông qua USD.
- Thị trường ngoại hối là thị trường vô hình nhưng hoạt động rất sôi động
các đồng tiền không phải được mua bán tại các sàn giao dịch mà được tổ chức
thành thị trường qua tay, tại đó hàng năm các nhà kinh doanh ngoại hối chủ yếu
là các ngân hàng sẵn sàng mua và bán các loại tiền gửi ghi bằng ngoại tệ. Thị
trường ngoại hối mang tính chất cạnh tranh cao và việc mua bán giữa các Công
ty, ngân hàng, chính phủ, thườngdiễn ra thông qua hệ thống các ngân hàng
thương mại.
1.1.2 Cấu trúc thị trường ngoại hối
Về cấu trúc thị trường ngoại hối không phức tạp lắm. Nếu căn cứ vào hình
thức tổ chức, thị trường gồm hai loại: thị trường có tổ chức và thị trường không
có tổ chức, có thể mô tả bằng sơ đồ sau:
Nếu căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh, thị trường ngoại hối có thể bao
gồm nhiều thị trường khác nhau như: thị trường giao ngay. Thị trường có kỳ
hạn, thị trường giao sau, thị trường quyền chọn và thị trường hoán đổi ngoại tệ.
Sơ đồ:
SV: Nguyễn Mạnh Thắng
Chuyên đề Tốt nghiệp
Cơ cấu của thị trường ngoại hối
Các bên tham gia thị trường ngoại hối được xác định bằng luật lệ của
nhiều quốc gia khác nhau. Tại phần lớn các nước luật lệ này được các chủ thể
thực hiện các giao dịch thông qua các trung gian được uỷ quyền có hay không
có trách nhiệm kiểm soát và là những thành viên chính tham gia thị trường ngoại
hối, đó là các NHTM và NHTW, các nhà môi giới, các Công ty xuất nhập khẩu.
Chúng ta xem xét vai trò của các thành viên trên thị trường ngoại hối
NHTM và ngân hàng đầu tư.
Nhóm này bao gồm tất cả các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư
tham gia mua bán ngoại tệ cho chính họ khi thực hiện mục tiêu kinh doanh hay
mua bán thay cho khách hàng khi thực hiện vai trò môi giới. Ngày nay, thị phần
ngoại tệ liên ngân hàng lớn hơn rất nhiều so với hoạt động trên cơ sở hoạt động
khách hàng. Theo thống kê, hoạt động ngoại tệ liên ngân hàng chiếm từ 70-
90% tổng doanh số hoạt động kinh doanh đối ngoại.
Hoạt động trên cơ sở nghiệp vụ khách hàng: Các ngân hàng thương mại
đảm nhận hầu hết các hoạt động chuyển hoá trên thị trường ngoại hối với tư
cách là người bán hoặc mua. Những ngân hàng lớn có nhiều khách hàng hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu, họ thương xuyên có nhu cầu mua ngoại tệ để
thanh tóan tiền hàng nhập khẩu hoặc có nhu cầu bán ngoại tệ để lấy nôị tệ chi
tiêu trong nước, lúc này NHTM sẽ tham gia vào thị trường ngoại hối với tư
cách là trung gian thay mặt cho khách hàng của mình để thực hiên các giao dịch.
Khi thực hiện các hợp đồng thanh toán bằng ngoại tệ trước hoặc sau các NHTM
đều phải thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ.
Bên cạnh những giao dịch phục vụ thanh toán, hầu hết các ngân hàng còn
hoạt động kinh doanh ngoại tệ theo hình thức liên ngân hàng, có nghĩa các ngân
hàng trực tiếp mua bán với nhau bằng chính số dư tài khoản ngoại tệ của mình.
Ngân hàng Trung ương
Ở hầu hết các nước NHTW là người đóng vai trò tổ chức và kiểm soát,
điều hành và ổn định sự hoạt động của thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá
SV: Nguyễn Mạnh Thắng
Chuyên đề Tốt nghiệp
hối đoái. Ngân hàng trung ương có 2 chức năng trên thị trường ngoại hối đó là
một mặt phục vụ khách hàng của mình ( chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà
nước, các ngân hàng thương mại nước ngoài, các tổ chức tiền tệ quốc tế,. Mặt
khác trung ương giám sát các hoạt động của thị trường, theo dõi, tỷ giá và trong
trường hợp cần can thiệp thì có thể một mình hoặc cùng các ngân hàng trung
ương khác để tác động tới một đồng tiền này hay một đồng tiền khác. Sự can
thiệp của ngân hàng thương mại nhằm cân bằng nhu cầu ngoại tệ để giữ cho tỷ
giá hối đoái tránh được những biến động. Khi can thiệp trên thị trường ngoại
hối, ngân hàng trung ưong thường sử dụng quý dự trữ bình ổn tỷ giá và thực
hiện chính sách hoạt động công khai. Ngân hàng trung ương dùng nghiệp vụ
mua bán ngoại tệ để điều chỉnh cung cầu thị trường. Trong trường hợp cung
ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, ngân hàng trung ương buộc phải mua ngoại tệ
bằng đồng bản tệ và bán ngoại tệ trong trường hợp ngược lại với giá cả do ngân
hàng thương mại quy định trong trường hợp ngược lại với giá cả ngân hàng
trung ương. Thông qua nghiệp vụ mua bán ngoại tệ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái
là những biện pháp rất quan trọng của nhà nước để ổn định sức mua của đồng
tiền quốc gia, đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá. Bên cạnh đó, các
ngân hàng trung ương cũng thường ký thoả thuận vay dự trữ và thoả thuận này
cho phép các ngân hàng trung ương vay dự trữ ngoại tệ trong thời gian ngắn để
bình ổn tỷ giá.
Là những người tham gia trên thị trường với tư cách là trung tâm trong
giao dịch mua bán hoặc mua bán thay cho người khác nhằm thu hoa hồng trong
từng chuyến giao dịch. Họ có thể là trung gian giữa các ngân hàng, giữa ngân
hàng với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với nhau để tạo điều kiện cho cung
cầu ngoại tệ.
Cơ sở hoạt động của các nhà mối giới là việc tổ chức bằng điện thoại hoặc
mạng vi tính với các ngân hàng, doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nhiệm vụ
của người môi giới là tìm ra một tỷ giá có lợi nhất cho khách hàng của mình
thông qua việc sử dụng hệ thống thông tin. Các nhà môi giới luôn có các hợp
SV: Nguyễn Mạnh Thắng
Chuyên đề Tốt nghiệp
đồng mua bán ngoại tệ với ngân hàng cộng tác với họ, các họp đồng này thường
xuyên ấn định mức chính từ các hợp đồng, tất nhên tuỳ từng ngân hàng tuỳ từng
hợp đồng đã thoả thuận trước giá mua tối đa và giá bán tối thiểu, đã tạo cho các
nhà môi giới những cơ hội lớn để tìm đến đối tác có nhu cầu.
Từ đó tỷ giá hối đoái của thị trường được các nhà môi giới xác định trên
cơ sở tham gia cung cầu thị trường
Các Công ty
Việc tham gia vào thị trường ngoại hối của Công ty bắt nguồn từ thị
trường quốc tế đầu tư trực tiếp. Thương maị quốc tế gắn liền với việc thanh toán
bằng ngoại tệ, do vậy việc mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối của các
Công ty, trước hết để thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu, sau nữa nhằm tự bảo
hiểm đối với các rủi ro do những biến động bất lợi của tỷ giá hối đoái gây ra
Các giao dịch mua bán ngoại tệ giưã các Công ty và ngân hàng chỉ chiêm một
tỷ lệ nhỏ trong các giao dịch trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên hiện nay vai
trò của các Công ty lớn, đặc biệt là các Công ty quốc gia ngày càng phát triển
trên thị trường ngoại hối. Nguyên nhân do các Công ty đa quốc gia thi hành
chính sách mở cửa rộng các nguồn dự trữ ngoại tệ, giảm bớt nguy cơ thiệt hại do
sự mất giá của các nguồn vốn tính bằng tiền không ổn định, đồng thời tích cực
chạy đua vì lợi nhuận trên cơ sở thu chênh lệch giá. Nếu như tỷ giá của một
đồng tiền nào đó có xu hướng giảm thì các Công ty sẽ chuyển nguồn vốn của
mình sang đồng tiền ổn định hơn.
Tuy nhiên, các Công ty có nhu cầu về mua bán ngoại tệ đều tiến hành giao dịch
với các ngân hàng và không chỉ căn cứ vào giá mua bán do ngân hàng chào mà
còn dựa vào khả năng cung cấp, việc đánh giá các thông tin về kinh tế ở các
nước mà họ đang hoạt động, khả năng đưa ra dự báo tỷ giá trong tương lai.
Qua phân tích cơ cấu tổ chức của thị trường ngoại hối, chúng ta thấy các
ngân hàng thương mại là những thành viên chính tham gia thị trường ngoại hối,
sau đây chúng ta xem xét họ sẽ thực hiện các nghiệp vụ gì trên thị trường này.
SV: Nguyễn Mạnh Thắng
Chuyên đề Tốt nghiệp
1.2 Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của NHTM
Thực tế cho thấy, bất kỳ loại hình kinh doanh nào mang lại lợi nhuận lớn
thì rủi ro mà nó đem lại cũng không phải là nhỏ và kinh doanh ngoại tệ cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Các rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối:
+ Rủi ro tỷ giá hối đoái
+ Rủi ro trạng thái ngoại hối
+ Rủi ro tỷ lệ SWAP ( tỷ lệ chuyển đổi)
+ Rủi ro thực hiện
+ Rủi ro chuyển đổi và kinh doanh
Để hạn chế các rủi ro người ta áp dụng các nghiệp vụ trên thị trường hối
đoái.
Tuy nhiên, các nghiệp vụ này không chỉ đơn thuần là hạn chế phòng ngừa
rủi ro mà trong quá trình thực hiện, nó còn mang lại một phần lợi nhuận đáng kể
trong tổng lợi nhuận. Do đó, nó cũng là các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trong
chính sách đa dạng hoá sản phẩm kinh doanh cuả ngân hàng. Mục đích kinh
doanh của ngân hàng là: phòng ngừa rủi ro, kinh doanh kiếm lời và kinh doanh
mang tính chất dịch vụ để thu phí.
1.2.1.Nghiệp vụ hối đoái giao ngay
Thị trường hối đoái giao ngay là một bộ phận của thị trường hối đoái,
doanh số hoạt động của nó chiếm khoảng 58 % tổng số doanh số thương mại
ngoại hối, trong khi thị trường kỳ hạn và thị trường theo quyền chọn chỉ chiếm
tương ứng là 40% và 20%.
Nghiệp vụ hối đoái giao ngay được thực hiện bằng hợp đồng mua bán
ngoại tệ giao ngay trong đó việc cung ứng các đồng tiền chuyển đổi được thực
hiện chậm nhất là hai ngày làm việc kể từ khi hợp đồng được ký kết.
Tỷ giá thanh toán ngay (sau hai ngày làm việc) trong thương mại quốc tế
gọi là SPORT-RATE, nếu một nhà kinh doanh ngoại tệ muốn thay đổi thời hạn
thực hiện hai ngày thành ba ngày thì có thể đề nghị bạn hàng của mình thực hiện
SV: Nguyễn Mạnh Thắng
Chuyên đề Tốt nghiệp
tỷ giá SPORT-NEXT, nếu muốn đổi thời hạn thực hiện từ hai ngày thành một
ngày thì đề nghị tỷ giá TOMOROW-NEXT,
Kỹ thuật giao dịch có thể thực hiện bằng điện thoại, hệ thống màn hình
( Computer), bằng điện báo và trên các sở giao dịch chứng khoán. Thực hiện
bằng kỹ thuật màn hình thực chất là thực hiện qua hệ thống thông tin điện tử,
tức là việc thoả thuận hay các hợp đồng được thực hiện thông qua hệ thống “
Money dealing”. Thông qua hệ thống này, các ngân hàng có thể trực tiếp liên hệ
với nhau và thoả thuận các hợp đồng thương mại. Việc chuyển thông tin được
thực hiện bằng bàn phím với những ký tự điện tử và thông tin sẽ xuất hiện trên
màn hình, đồng thời một máy in được nối mạng với hệ thống sẽ in lại thành biên
bản thông tin được chuyển đi. Hệ thống này có ưu điểm so với hình thức điện
thoại là việc ghi nhận các thoả thuận bằng văn bản, khắc phục các lỗi nhầm
thường gặp trong giao dịch điện thoại như nghe nhầm, viết nhầm, vì thế hệ
thống “ Money dealing” được sử dụng rộng rãi.
Tỷ giá giao ngay (SPORT-RATE) được niêm yết trên các báo kinh tế
hàng ngày ở các quốc gia. Thực tế hiện nay, tỷ giá của hầu hết các loại ngoại tệ
được trao đổi đều được tính toán so với USD mà không được tính toán trực tiếp
với nhau nữa. Đồng USD được sử dụng như một loại ngoại tệ trung chuyển
( transport), đồng thời tỷ giá giữa hai đồng tiền không thông dụng, người ta sử
dụng tỷ giá tính chéo sau:
Tỷ gía giao ngay: USD/FRF: 4.8240-60
Tỷ gía giao ngay: USD/JPY: 125.25-36
Tỷ gía giao ngay: USD/JPY được tính như sau:
* Tỷ giá mua:
+ Bán 1 FRF thu được 1/4.8240 USD
+ Bán 1/4.8240 USD thu được 1/4.8240x125.25 JPY, tức là thu được
25.9639 JPY.
Vậy tỷ giá mua FRF là 25.9639
* Tỷ giá bán
SV: Nguyễn Mạnh Thắng
Chuyên đề Tốt nghiệp
+ Mua 1 FRF cần có 1/4.8260 USD
+ Muốn có số USD trên cần có 125.35x1/4.8260 JPY, tức là cần có
25.9739 JPY.
Vậy tỷ giá bán FRF là 25.9739
Ta có tỷ giá tính chéo là: 25.9639 - 25.9739
Điều kiện thực hiện nghiệp vụ hối đoái giao ngay là:
+ Trước hết, phải có nhu cầu của khách hàng, thông thường nghiệp vụ
giao ngay phát sinh khi có nhu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ thực hiện
nghiệp vụ này để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
+ Nghiệp vụ giao ngay còn được thực hiện trong hoạt động đầu cơ của
ngân hàng, dự toán tỷ giá của một đồng tiền trong thời gian tới, ngân hàng sẽ
mua đồng tiền đó theo hợp đồng giao ngay với ngân hàng khác. Khi tỷ giá thay
đổi theo đúng dự toán, ngân hàng có thể bán trao ngay số tiền đầu cơ đó và thu
chênh lệch. Ngoài ra, nghiệp vụ trao ngay được sử dụng kết hợp với các nghiệp
vụ khác trong các đầu cơ chênh lệch lãi suất.
1.2.2 Nghiệp vụ ARBITRAGE:
Nghiệp vụ ARBITRAGE là nghiệp vụ kinh doanh của bản thân ngân
hàng, theo ý nghĩa nguyên thuỷ cuả nó, nghiệp vụ này là việc lợi dụng sự chênh
lệch về tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối khác nhau để thu lời thông qua hoạt
động mua và bán. Do đó, nó còn có tên gọi là nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch
giá hay kinh doanh giao ngay. Đó là việc tiến hành mua bán ngoại tệ đồng thời
trên các thị trường hối đoái theo nguyên tắc mua ở nơi rẻ và bán ở nơi đắt.
Nghĩa là mua với tỷ giá thấp và bán với tỷ giá cao.
Nghiệp vụ này được thể hiện dưới hai dạng: kinh doanh giản đơn và kinh
doanh phức tạp. Kinh doanh giản đơn là việc mua bán ngoại tệ được thực hiện ở
hai thị trường khác nhau trong cùng một thời điểm. Kinh doanh phức tạp là việc
mua bán ngoại tệ thông qua nhiều thị trường, từ 3 thị trường trở lên. Dù là giản
đơn hay phức tạp, nghiệp vụ này chỉ áp dụng giao dịch giữa ngân hàng với ngân
hàng. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động của các nhà kinh tế có thu chi ngoại tệ
SV: Nguyễn Mạnh Thắng
Chuyên đề Tốt nghiệp
vẫn diễn ra thường xuyên, để đạt được hiệu quả trong việc sử dụng các loại
ngoại tệ, họ đã yêu cầu ngân hàng sử dụng kỹ thuật ARBITRAGE để dịch vụ
cho họ. Khi đó,ngân hàng với tư cách là người phục vụ khách hàng và thu phí.
Khi thực hiện nghiệp vụ này, người ta áp dụng tỷ giá giao ngay, là tỷ giá
áp dụng tại thời điểm giao dịch (J) nhưng ngày giá trị của nó là sau hai ngày
việc (J+2). Trong trường hợp khách hàng cần giao dịch với hai đồng ngoại tệ thì
ngân hàng phải xác định tỷ giá chéo của hai loại đồng tiền thông qua đồng tiền
trung gian thứ ba.
Để thấy được lợi ích cuả nghiệp vụ này, ta xét ví dụ sau:
Ngày 4/7/1998, Công ty XNK Việt nam nhận được 100.000 DEM từ lô
hàng xuất khẩu sang Đức, đồng thời lại phải thanh toán cho lô hàng nhập khẩu
từ Pháp là : 500.000 FRF, tỷ giá trên các thị trường:
USD/DEM = 2.1525/40
USD/FRF = 5.6410/30
USD/VND = 12960 – 980
Nếu thực hiện nhiệm ARBITRAGE : Ngân hàng sẽ phục vụ cho khách
hàng bằng cách bán DEM lấy FRF, số FRF còn thiếu sẽ được mua bằng VND.
Vì đây là giao dịch giữa hai đồng ngoại tệ nên ta phải xác định tỷ giá
chéo. Theo ví dụ: số DEM của khách hàng không đủ để mua số FRF nên chiều
yết giá sẽ là DEM/FRF.
+ Xác định tỷ giá bán: DEM/FRF
Bán DEM theo tỷ giá 1 USD = 2,1540 DEM
Mua FRF theo tỷ giá 1 USD = 5,6410 FRF
Tỷ giá cần tìm là DEM/FRF, do DEM là đồng tiền yết giá và FRF là đồng
định giá. Vậy ta có: 1 DEM = 5,6410/2,1540 = 2,6188 FRF
+ Số FRF mua được từ 100.000 Dem:
100.000 x 2,6188 = 261.880 FRF
+ Số FRF còn thiếu: 500.000 – 261880 = 238.120 FRF
* Mua số FRF còn thiếu bằng VND:
SV: Nguyễn Mạnh Thắng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét